Vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là toàn bộ chi phí cho việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông nhằm mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội trong tương lai.
1. Một số khái niệm về kết cấu hạ tầng
1.1. Khái niệm kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Kết cấu hạ tầng có nguồn gốc từ tiếng Anh (infrastructure) gồm 2 từ ghép infra (ở dưới đáy) và structure (kết cấu, cấu trúc). Ở nước ta, kết cấu hạ tầng còn được gọi là cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên để tránh nhầm lẫn với thuật ngữ cơ sở hạ tầng thường đi cùng với thuật ngữ kiến trúc thượng tầng trong triết học nên kết cấu hạ tầng thường được dùng hơn.
Kết cấu hạ tầng được hiểu theo nghĩa rộng gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật (kết cấu hạ tầng kỹ thuật) gồm hệ thống giao thông, nhà máy điện, nhà máy xử lý rác thải… và kết cấu hạ tầng xã hội như trường học, cơ sở y tế, trung tâm thương mại…
Là một bộ phận của kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kết cấu hạ tầng giao thông là hệ thống những công trình giao thông được xây dựng, nhằm đảm bảo cho việc di chuyển, đón trả khách và vận chuyển hàng hoá, dịch vụ của các loại phương tiện giao thông diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi và an toàn.
Kết cấu hạ tầng giao thông thường được xem xét theo hệ thống, có nghĩa là hệ thống giao thông có sự kết nối với nhau giữa đường bộ với đường thuỷ, đường hàng không, đường sắt và giữa các loại đường với nhau thạo thành một hệ thống hoàn chỉnh, có tác động tương hỗ với nhau.
Kết cấu hạ tầng giao thông được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau: Theo phương thức vận tải, kết cấu hạ tầng giao thông được phân thành: kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, kết cấu hạ tầng giao thông đường sắt, kết cấu hạ tầng giao thông đường thuỷ, kết cấu hạ tầng giao thông đường biển, kết cấu hạ tầng giao thông đường hàng không. Theo cấp quản lý, kết cấu hạ tầng giao thông được phân thành: kết cấu hạ tầng giao thông quốc gia (quốc lộ, đường sắt quốc gia, cảng trung ương…); kết cấu hạ tầng giao thông địa phương (đường tỉnh, đường huyện, đường xã, cảng địa phương…). Theo khu vực, kết cấu hạ tầng giao thông được phân thành kết cấu hạ tầng giao thông đô thị và kết cấu hạ tầng giao thông nông thôn.
Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là một bộ phận của kết cấu hạ tầng giao thông, được hình thành ở các đô thị, khu đô thị. Hay cụ thể hơn, kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là hệ thống những công trình giao thông được xây dựng, nhằm đảm bảo cho việc di chuyển, đón trả khách và vận chuyển hàng hoá, dịch vụ của các loại phương tiện giao thông diễn ra một cách nhanh chóng, thuận lợi và an toàn ở các đô thị.
Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị bao gồm hai bộ phận: giao thông ngoại thị và giao thông nội thị. Trong đó:
Giao thông ngoại thị là các đầu nút giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường biển, đường sắt, đường hàng không nối liền hệ thống giao thông nội thị với hệ thống giao thông quốc gia và quốc tế.
Giao thông nội thị là hệ thống các loại đường nằm trong nội bộ đô thị (nội đô) thuộc phạm vi địa giới hành chính của một địa phương, một thành phố. Ngoài ra còn có hệ thống giao thông tĩnh trong đô thị bao gồm nhà ga, bến xe ô tô, các điểm đỗ xe… Như vậy, kết cấu hạ tầng giao thông đô thị ở các địa phương bao gồm các loại hình nào tuỳ thuộc vào đặc điểm tự nhiên và kinh tế xã hội của địa phương đó. Ở Việt Nam, các địa phương lớn ven biển như Hải Phòng, Đà Nẵng có đủ tất cả các loại hình giao thông trên đây. Riêng các thành phố nằm sâu trong đất liền như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh không có kết cấu hạ tầng giao thông đường biển.
Như vậy ở đây có thể thấy, kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là tất cả hệ thống công trình giao thông thuộc phạm vi nội đô. Cụ thể hơn, các công trình giao thông bao gồm đường bộ và đường sắt đô thị; nội đô là thuộc phạm vi các quận nội thành.
1.2. Khái niệm vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
1.2.1 Khái niệm về vốn đầu tư
Vốn đầu tư là yếu tố đầu vào quan trọng, được sử dụng vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp và nền kinh tế tổng thể của một quốc gia. Đó là tất cả những gì mà doanh nghiệp, nền kinh tế sử dụng vào quá trình sản xuất, nhằm mục đích tạo ra khối lượng sản phẩm, hàng hoá có giá trị lớn hơn giá trị bỏ ra ban đầu.
Như vậy theo quan điểm kinh tế vĩ mô, vốn đầu tư trong kinh tế bao gồm ba nội dung chính là: vốn đầu tư làm tăng tài sản cố định; vốn đầu tư làm tăng tài sản lưu động và vốn đầu tư vào nhà ở.
Dưới góc độ tài chính – tiền tệ, vốn đầu tư là tổng số tiền biểu hiện nguồn gốc hình thành của tài sản được đầu tư trong kinh doanh để tạo ra thu nhập và lợi tức [43]
Dưới góc độ là nhân tố đầu vào, vốn đầu tư là một trong số yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất (lao động, đất đai, vốn, công nghệ).
Dưới góc độ quản lý kinh tế, vốn đầu tư được xem xét là toàn bộ các chi phí được đưa vào sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh, các hoạt động kinh tế – xã hội. Theo điều 3, Luật Đầu tư số 59/2005/QH11 do Quốc hội ban hành ngày 29/11/2005, “Vốn đầu tư là tiền và các tài sản hợp pháp khác để thực hiện các hoạt động đầu tư theo hình thức đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư gián tiếp” [52].
Theo quan niệm của tác giả, vốn đầu tư là toàn bộ các chi phí bỏ ra để thực hiện mục đích đầu tư.
1.2.2 Khái niệm vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Vốn được đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau như: sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ, chứng khoán, bất động sản… hay lĩnh vực xây dựng cơ bản, kết cấu hạ tầng kỹ thuật mà thường được gọi là vốn đầu tư phát triển.
Vốn đầu tư phát triển là những chi phí bỏ ra để thực hiện các hoạt động đầu tư nhằm tăng thêm tài sản tài chính (tiền vốn); tài sản vật chất (nhà máy, thiết bị, vật tư, nguyên, nhiên, vật liệu, hàng hoá, cầu cống, đường sá); tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực (trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn, trình độ khoa học kỹ thuật).
Từ các định nghĩa đó, có thể thấy rằng vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông là toàn bộ chi phí cho việc xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông nhằm mang lại hiệu quả kinh tế – xã hội trong tương lai.
Là một bộ phận của vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông, do đó vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là toàn bộ chi phí được đầu tư nhằm phát triển kết cấu hạ tầng giao thông ở đô thị.
Với khái niệm này cần làm rõ một số điểm:
Chi phí đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông bao gồm các khoản đầu tư được tính bằng tiền thực hiện dự án phát triển hệ thống giao thông. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị còn cần một khối lượng lớn tài nguyên đất đai, tuy nhiên giá trị đất đai không được tính đến mà chỉ tính đến khoản tiền đền bù giải phóng mặt bằng khi thực hiện các dự án phát triển giao thông đô thị.
Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị bao gồm việc đầu tư xây dựng mới hệ thống giao thông, cải tạo, nâng cấp và duy tu bảo dưỡng hệ thống giao thông hiện có. Tuy nhiên để thuận tiện cho việc nghiên cứu, luận án chỉ xem xét đến việc đầu tư xây dựng mới hệ thống giao thông đô thị mà không tính đến các khoản đầu tư cải tạo, nâng cấp và duy tu bảo dưỡng hệ thống giao thông cũ.
Vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị bao gồm: vốn ngân sách nhà nước từ trung ương, vốn ngân sách nhà nước từ địa phương (NSĐP), vốn tín dụng nhà nước, vốn ODA, vốn doanh nghiệp tư nhân và vốn dân cư. Do giới hạn phạm vi của luận án, vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được nghiên cứu là vốn NSĐP, là bộ phận của vốn đầu tư phát triển được bố trí từ ngân sách hàng năm của thành phố. Nguồn vốn này được đầu tư xây dựng các công trình giao thông trên địa bàn thành phố, do UBND thành phố quản lý.
1.3. Đặc điểm của vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
1.3.1. Vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thường có quy mô lớn và thời gian thu hồi dài, thậm chí không thể thu hồi được
Các công trình giao thông đều là các công trình mang tính đơn chiếc, trải dài trên phạm vi không gian rộng lớn, không những của địa phương mà còn kết nối với những vùng, lãnh thổ, địa phương khác. Do các yếu tố về tự nhiên, kỹ thuật phức tạp lại đòi hỏi độ bền cao, thời gian sử dụng lâu dài với cường độ sử dụng lớn, nên các công trình này đều có giá thành rất cao. Ví dụ, tùy theo cấp đường, phụ thuộc vào mặt cắt ngang, địa chất mà lượng vốn đầu tư đòi hỏi cho 1 km đường có thể giao động từ 5-10 tỷ đồng/km theo thời giá hiện tại.
Bên cạnh đó, các công trình giao thông ở đô thị phải xây dựng đồng bộ từ đường, vỉa hè, điện chiếu sáng, cây xanh, biển báo giao thông, hệ thống thoát nước, để đảm bảo giao thông an toàn và hiệu quả. Mặt khác, so với kết cấu hạ tầng giao thông ở các khu vực khác do kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được xây dựng, phát triển ở đô thị là nơi có mật độ dân cư đông đúc và nhiều công trình xây dựng sẵn có, nên việc giải phóng mặt bằng sẽ rất phức tạp, đòi hỏi lượng vốn để giải phóng mặt bằng chiếm tỷ lệ lớn hơn và thời gian thi công cũng sẽ kéo dài hơn. Chính vì vậy mà lượng vốn đầu tư vào các công trình giao thông thường rất lớn.
Các công trình giao thông đô thị được đầu tư cho mục đích công cộng, phục vụ cho việc đi lại và vận chuyển hàng hoá của dân cư. Với giá trị đầu tư rất lớn nhưng các khoản thu từ công trình là phí sử dụng lại ít, thậm chí thường là không thu phí nên các công trình có thời gian thu hồi vốn dài hoặc không thu hồi được vốn. Đây là đặc điểm nổi bật dẫn đến gánh nặng ngân sách ngày càng tăng, khó thu hút các nguồn vốn tư nhân.
1.3.2. Vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thường có độ rủi ro cao, phụ thuộc vào các phương thức và chính sách huy động vốn
Vốn đầu tư dài hạn nói chung và vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nói riêng thường được đầu tư trong thời gian dài nên mức độ rủi ro cao (rủi ro về lãi suất, lạm phát và sự thay đổi trong chính sách đầu tư của Nhà nước, thiên tai…). Hơn nữa, do nguồn vốn này phát sinh trong thời gian dài, sử dụng cho nhiều loại công việc có tính chất khác nhau, đặc điểm khác nhau, trong quá trình đầu tư, người nhận thầu phải ứng ra lượng vốn lớn để thực hiện công việc trong thời gian chờ đợi vốn của chủ đầu tư, do vậy tình trạng nợ đọng, chiếm dụng vốn trong xây dựng GTĐT thường dễ xảy ra.
Bên cạnh đó, các công trình giao thông thuộc về tài sản công cộng, có quy mô lớn và chủ yếu ở ngoài trời, chịu ảnh hưởng trực tiếp của điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu nên khó tính toán mức độ rủi ro. Trong điều kiện biến đổi khí hậu như hiện nay, việc đo lường, tính toán mức độ thiệt hại của các công trình giao thông công cộng do bão lũ gây ra khá khó khăn và đòi hỏi đầu tư thời gian, công sức cũng như tiền bạc để phòng, chống và khắc phục hậu quả.
1.3.3. Vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thường đầu tư theo các dự án phát triển và được huy động từ rất nhiều nguồn
Kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là tài sản công cộng, thuộc quyền quản lý của Nhà nước, có tính hệ thống, đồng bộ. Vì thế, việc đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông đô thị cần phải có chiến lược, mang tính dài hạn, đồng bộ, và quản lý tập trung theo từng dự án phát triển.
Nguồn vốn này đến từ nhiều kênh, trong đó phụ thuộc vào trình độ phát triển của các quốc gia, khả năng huy động và quản lý vốn, mức độ phát triển của các loại thị trường tài chính, tiền tệ. Đối với các nước đang phát triển, nguồn vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị chủ yếu dựa vào ngân sách nhà nước do mức độ rủi ro cao, thời gian thu hồi vốn dài và hiệu quả thấp nên khó thu hút các nguồn vốn tư nhân. Tuy nhiên, với nguồn lực có hạn nhưng nhu cầu đầu tư ngày càng lớn thì việc huy động các nguồn vốn khác ngoài ngân sách nhà nước như vốn của các doanh nghiệp tư nhân, vốn đầu tư nước ngoài… là hết sức quan trọng, cần được quan tâm.
1.3.4. Hiệu quả vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là hiệu quả kinh tế – xã hội tổng hợp
Nguyên tắc sử dụng vốn đầu tư nói chung là hiệu quả và có sinh lợi. Do vậy, vốn đầu tư khi được huy động và sử dụng thường được chú ý đến tính sinh lợi của đồng vốn. Toàn bộ quá trình xác định vốn, huy động vốn, sử dụng vốn, quyết toán vốn đều được tính toán hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. Tuy nhiên, kết cấu hạ tầng giao thông nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nói riêng là các sản phẩm công ích và là tài sản do Nhà nước quản lý nên việc tính toán hiệu quả của vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị không chỉ là hiệu quả kinh tế như các loại vốn đầu tư thông thường khác mà cần xét đến hiệu quả kinh tế – xã hội mà vốn đầu tư đó mang lại.
Khi đưa ra quyết định cho mỗi dự án đầu tư cần xem xét hiệu quả với một cách nhìn toàn diện, xem xét hiệu quả kinh tế đi đôi với hiệu quả xã hội, kết hợp lợi tích trước mắt với lợi ích lâu dài, lợi ích cục bộ của từng bộ phận với lợi ích tổng thể của toàn xã hội. Chẳng hạn, khi mở một con đường mới sẽ tạo điều kiện cho dân cư đi lại một cách dễ dàng hơn, giảm được ách tắc nên thời gian đi lại được rút ngắn, chi phí xăng xe giảm, thời gian làm việc của người lao động tăng lên, các doanh nghiệp trong vùng và đối tác liên quan hoạt động thuận lợi hơn, việc chuyên chở nguyên, nhiên vật liệu và hàng hoá dễ dàng hơn. Từ đó gia tăng thu nhập của doanh nghiệp cũng như của vùng và đất nước… Do đó, tính sinh lợi của hầu hết các dự án đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thể hiện trước hết ở hiệu quả xã hội của vốn, sau đó thể hiện ở các chỉ tiêu hiệu quả là lợi ích xã hội thu được phải lớn hơn chi phí vốn đầu tư bỏ ra.
2. Một số vấn đề lý luận chung quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
2.1. Khái niệm quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Xuất phát từ khái niệm cơ bản: “Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý tới đối tượng quản lý thông qua các công cụ quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra”, có thể đưa ra khái niệm “Quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị” như sau:
“Quản lý Nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là những tác động liên tục, có tổ chức, có định hướng của cơ quan nhà nước có chức năng, thẩm quyền tới các đơn vị và cá nhân thực hiện quá trình huy động, sử dụng vốn đầu tư, thông qua các cơ chế, chính sách của Nhà nước nhằm phát triển hệ thống giao thông đô thị có hiệu quả”.
Thứ nhất, chủ thể quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được thực hiện ở nhiều cấp: Trung ương và địa phương. Ở cấp trung ương, chủ thể quản lý về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là Quốc hội, Chính phủ với các Bộ chức năng như: Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Giao thông vận tải, Kho bạc Nhà nước… Ở cấp địa phương, quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được thực hiện ở cấp thành phố và cấp quận, huyện.
Ở cấp thành phố, HĐND và UBND là chủ thể quản lý về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Trong đó, sở Kế hoạch và Đầu tư, sở Giao thông vận tải, sở Tài chính, Kho bạc nhà nước… là các cơ quan thuộc UBND Thành phố thực hiện chức năng quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị ở những mặt khác nhau. Ví dụ, sở Kế hoạch và Đầu tư thực hiện chức năng lập kế hoạch vốn, sở Tài chính thực hiện phân bổ vốn, Kho bạc nhà nước thành phố thực hiện việc quản lý thanh quyết toán vốn…
– Đối tượng quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị: là các đơn vị, cá nhân thực hiện các hoạt động liên quan đếnvốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị (gồm vốn ngân sách nhà nước, vốn ODA, vốn của các doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước và các vốn tiết kiệm của dân cư thông qua các tổ chức tài chính trung gian). Các hoạt động liên quan đến vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị bao gồm quá trình huy động và sử dụng vốn đầu tư vào dự án phát triển giao thông đô thị.
Quản lý nhà nước chỉ chủ động đối với nguồn vốn ngân sách nhà nước, đối với các nguồn vốn khác, Nhà nước phải thông qua chính sách, cơ chế tạo điều kiện định hướng doanh nghiệp và dân cư.
Đối với các dự án sử dụng vốn ngân sách nhà nước, UBND thành phố chịu trách nhiệm quản lý các dự án do mình quyết định đầu tư. Các dự án này có thể thuộc cả 3 nhóm: A, B, C trong phạm vi và khả năng cân đối ngân sách của địa phương sau khi thông qua HĐND cùng cấp. Với các dự án này, UBND thành phố quản lý toàn bộ quá trình huy động, phân bổ và sử dụng vốn từ việc xác định chủ trương đầu tư, lập dự án, quyết định đầu tư, lập dự toán, lựa chọn nhà thầu, thi công xây dựng đến khi nghiệm thu, bàn giao và đưa công trình vào khai thác sử dụng. Đối với dự án gồm nhiều dự án thành phần, tuỳ mỗi dự án thành phần có thể được quản lý theo sự phân chia và thoả thuận giữa các bên và do người quyết định đầu tư quyết định.
Với dự án sử dụng nguồn vốn ODA do thành phố là chủ đầu tư, UBND thành phố chịu trách nhiệm quản lý nguồn vốn này. Tuy nhiên, các dự án này cũng chịu sự quản lý của các nhà tài trợ nên cơ chế quản lý sẽ có nhiều điểm khác biệt hơn.
Đối với các dự án sử dụng vốn khác bao gồm cả vốn tư nhân theo hình thức PPP, UBND thành phố chủ yếu quản lý năng lực đầu tư vốn của chủ đầu tư để xét duyệt dự án, còn quá trình thực hiện dự án sẽ do chủ đầu tư tự quyết định.
Đối với dự án của doanh nghiệp sử dụng vốn tín dụng do Nhà nước bảo lãnh, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và vốn đầu tư phát triển của DNNN, UBND thành phố sẽ quản lý về chủ trương và quy mô đầu tư. Doanh nghiệp có dự án tự chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện và quản lý dự án theo các quy định của pháp luật có liên quan.
Chính vì vậy mà vốn đầu tư được nghiên cứu trong luận án chủ yếu là vốn ngân sách nhà nước của thành phố. Nguồn vốn ODA cũng thuộc ngân sách nhà nước, nhưng do những đặc điểm riêng biệt trong quản lý nên không được xem xét. Các nguồn vốn khác như PPP, FDI, vốn của các tổ chức tài chính trung gian và vốn dân cư… trong khuôn khổ luận án chỉ được đề cập khi so sánh hoặc bổ sung cho những đánh giá đối với vốn ngân sách nhà nước.
Phương thức quản lý vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được thực hiện thông qua quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông đô thị, hình thành khung khổ pháp luật; ban hành và thực hiện cơ chế, chính sách; bố trí đội ngũ cán bộ giám sát, kiểm tra, kiểm soát hoạt động tại các công trình.
2.2. Mục tiêu của quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị phải nhằm đạt được các mục tiêu quan trọng, bao gồm mục tiêu trung gian và mục tiêu cuối cùng, thể hiện trên các khía cạnh sau:
2.2.1. Định hướng, huy động có hiệu quả các nguồn vốn trong và ngoài nước nhằm phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Đây là mục tiêu đầu tiên mà quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư hướng tới nhằm giải quyết vấn đề ngân sách để phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Các quốc gia nói chung và địa phương nói riêng đều phải đối mặt với sự mâu thuẫn khó giải quyết, một bên là nhu cầu về cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới về kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, một bên là sự thiếu hụt về vốn. Trong khi khả năng huy động các nguồn thu từ ngân sách nhà nước cũng chỉ đủ đáp ứng một phần nhu cầu đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thì việc huy động các nguồn vốn ngoài ngân sách nhà nước là hết sức quan trọng để bù đắp cho sự thiếu hụt này. Thực tế cho thấy rằng, đối với đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, vốn ngân sách nhà nước được xem là “vốn mồi”, vốn đối ứng, vốn dẫn xuất để thu hút các thành phần vốn khác vào đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
Bằng cơ chế, chính sách khuyến khích đầu tư của mình, Nhà nước sẽ huy động các nguồn vốn, đặc biệt là vốn của doanh nghiệp tư nhân trong và ngoài nước vào các công trình giao thông đô thị theo đúng mục tiêu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị của mình. Muốn vậy các cơ quan quản lý nhà nước bên cạnh việc kêu gọi, khuyến khích các nguồn vốn đầu tư khác cho việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị cần tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, thông thoáng, đảm bảo lợi ích thỏa đáng cho các nhà đầu tư thuộc các thành phần kinh tế sẵn sàng bỏ vốn đầu tư để cùng Nhà nước phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
Vốn đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đô thị bao gồm vốn bằng tiền, hoặc vốn bằng tài sản như đất đai… Việc vốn hóa các tài sản đầu tư vào kết cấu hạ tầng giao thông đô thị đòi hỏi tính chính xác, đúng thời điểm, phù hợp với quy chế quản lý đầu tư của Nhà nước mà không gây thiệt thòi cho người sở hữu vốn, đảm bảo mục tiêu đầu tiên là huy động được tối đa nguồn vốn.
Để đạt được mục tiêu này, các cơ quan quản lý nhà nước phải chú trọng công tác lập kế hoạch vốn đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông đô thị và các chính sách khuyến khích huy động vốn ngoài ngân sách nhà nước.
2.2.2. Đảm bảo phân bổ hợp lý các nguồn vốn đầu tư vào các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Cùng với quá trình phát triển kinh tế, đô thị hóa, nguồn vốn đầu tư (đặc biệt là vốn ngân sách nhà nước) ngày càng hạn hẹp, song nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị lại rất lớn, thường xảy ra những khoảng cách giữa nhu cầu và khả năng đáp ứng. Vì thế, việc cân đối nguồn vốn và phân bổ hợp lý vào những dự án giao thông sao cho đúng đối tượng, đảm bảo tính cấp thiết, đúng số lượng và tiến độ, phục vụ tốt yêu cầu đi lại, vận chuyển của đông đảo người dân là vấn đề không đơn giản, là mục tiêu phấn đấu của quản lý nhà nước.
Các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thường được triển khai trên các khu dân cư đông đúc nên việc chậm trễ xây dựng không chỉ đội giá thành mà còn cản trở giao thông và sinh hoạt của nhân dân đô thị, gây nhiều bức xúc cho dân. Vì thế, đẩy nhanh tiến độ xây dựng là một đòi hỏi cấp thiết. Điều này càng gây sức ép để thực hiện việc cấp vốn đầy đủ và kịp thời.
Để phân bổ vốn đúng đối tượng, đầy đủ và kịp thời cho các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, trước hết công tác lập kế hoạch, cân đối nguồn vốn phải được thực hiện cẩn thận, có những đánh giá sát sao, khoa học, tránh trường hợp quyết định phê duyệt vốn một cách tuỳ hứng, thiếu quan tâm đầy đủ, đúng mức đến lượng vốn huy động được. Phân bổ vốn phải đảm bảo đúng dự toán đã được phê duyệt, cả về khối lượng và tiến độ. Ngoài ra, đối với các doanh nghiệp được trúng thầu xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, Nhà nước có thể sử dụng nguồn vốn tín dụng của mình để cho vay, đảm bảo tiến độ thi công. Việc phân bổ nguồn vốn tín dụng vào các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị theo đúng mục tiêu sẽ giúp các doanh nghiệp có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn, góp phần tăng năng lực sản xuất, giải quyết được những khó khăn để đầu tư vào các công trình cần khối lượng vốn lớn.
Công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thường là những công trình đòi hỏi nguồn vốn đầu tư rất lớn với những yêu cầu khắt khe về kỹ thuật. Vì thế, quản lý nhà nước về vốn đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông đô thị hiệu quả là vấn đề không dễ dàng. Bởi với một quá trình đầu tư lâu dài, nhiều tầng nấc, việc thất thoát, lãng phí có thể xảy ra trong tất cả quá trình thực hiện dự án, từ chủ trương đầu tư, lập quy hoạch, kế hoạch đến thi công công trình. Muốn hạn chế điều đó cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát vốn đầu tư sát sao, đầy đủ và đúng quy trình bằng các quy trình đầu tư chặt chẽ, bằng chính sách, pháp luật, và các chế tài xử phạt nghiêm minh. Với nguồn vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước rất dễ xảy ra tình trạng “cha chung không ai khóc” thì việc quản lý thông qua thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với nguồn vốn này sẽ giúp Nhà nước giám sát được nguồn lực đầu tư, tránh tình trạng tham nhũng, thất thoát trong quá trình đầu tư công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Thực hiện tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ hạn chế được thất thoát, lãng phí, đảm bảo được đúng mục tiêu mà quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông hướng tới.
2.2.3. Phát triển hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Phát triển hiệu quả hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là mục tiêu quan trọng nhất và có thể xem là mục tiêu cuối cùng của quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Với mục tiêu này, việc quản lý phải đảm bảo vốn đầu tư phải được sử dụng một cách hiệu quả nhất, với chi phí thấp nhất và hoàn thành công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị có chất lượng cả về kỹ thuật, mỹ thuật và bền vững, phục vụ tốt nhu cầu đi lại thuận lợi, nhanh chóng và an toàn của người dân. Để đạt được mục tiêu này, vốn đầu tư phải được phân bổ vào các công trình giao thông trọng điểm, các công trình đang bị ách tắc kéo dài gây bức xúc cho người dân hoặc có tầm chiến lược trong dài hạn. Trong quá trình thực hiện đầu tư cần thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát nguồn vốn, tránh thất thoát, lãng phí, tiết kiệm nguồn vốn, làm giảm giá thành của công trình. Như vậy, với một lượng vốn nhất định, các công trình giao thông được phát triển một cách hiệu quả, giải quyết được nhu cầu đi lại nhanh chóng và thuận tiện của người dân.
Có thể nói, việc thực hiện mục tiêu này cũng rất khó khăn, phụ thuộc vào tầm nhìn của lãnh đạo trong việc quy hoạch, lập và thẩm định kế hoạch vốn. Ngoài ra, việc quản lý, giám sát công tác thi công, nghiệm thu công trình, kể cả việc quản lý sau khi công trình được đưa vào sử dụng của các cơ quan quản lý là hết sức quan trọng. Hay nói cách khác, việc thực hiện có kết quả các mục tiêu trước đã nêu trên sẽ cho phép thực hiện mục tiêu này với kết quả tốt nhất.
2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là một hoạt động tổng thể, bao gồm từ khâu lập kế hoạch, tổ chức huy động, phân bổ, thanh, quyết toán và kiểm tra, kiểm soát vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
Với quy trình này, quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị có những nội dung sau:
2.3.1. Lập kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Sau khi danh mục dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được phê duyệt, cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tiến hành lập kế hoạch vốn đầu tư.
Trong việc lập kế hoạch vốn, thường người ta chia thành: kế hoạch dài hạn, kế hoạch trung hạn và kế hoạch ngắn hạn. Kế hoạch dài hạn (thường là 10 năm) cung cấp tầm nhìn khái quát nhu cầu vốn trong thời gian dài để có thể chuẩn bị tốt hơn nhưng thường gặp nhiều biến đổi trong khi thực hiện. Kế hoạch trung hạn (thường là 5 năm) sẽ giúp các nhà quản lý và các đơn vị thực hiện biết được nhu cầu vốn là bao nhiêu để tập trung đẩy mạnh thực hiện tiến độ các dự án, tránh tình trạng cứ phê duyệt dự án trước rồi mới lo nguồn sau, khiến nhiều dự án bị dang dở. Có thể nói kế hoạch trung hạn là kế hoạch có thời hạn tốt nhất để giúp cho quản lý vốn đầu tư chủ động và có hiệu quả hơn. Kế hoạch ngắn hạn (thường là từng năm) được lập trên cơ sở kế hoạch trung hạn, cho biết việc đầu tư vốn sẽ được thực hiện như thế nào trong năm ngân sách.
Nội dung kế hoạch vốn đầu tư bao gồm: tổng mức đầu tư của các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị; phương án huy động vốn theo tiến độ, khả năng thu xếp vốn, nguồn vốn và khả năng cấp vốn theo tiến độ và phân tích đánh giá hiệu quả kinh tế – tài chính, hiệu quả xã hội của dự án.
Việc xây dựng kế hoạch huy động, phân bổ và sử dụng nguồn vốn phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị căn cứ vào việc phân cấp giữa Trung ương và địa phương, khả năng cân đối nguồn thu của địa phương và các nguồn khác trong từng giai đoạn, phù hợp với chu kỳ tài khóa. Với những Thành phố, thủ đô, có ý nghĩa quan trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, cơ chế phân cấp theo hướng tự chủ, sáng tạo sẽ tạo điều kiện cho địa phương chủ động được nguồn thu, tăng ngân sách của Thành phố, đảm bảo cho kế hoạch khả thi hơn. Kế hoạch huy động và sử dụng ngân sách phải được đưa vào dự toán ngân sách để trình cơ quan nhà nước cấp cao hơn thẩm định và phê duyệt.
2.3.2. Tổ chức huy động vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Trên cơ sở kế hoạch vốn đầu tư, các cơ quan quản lý của Thành phố xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách huy động vốn đầu tư cho các dự án giao thông đô thị.
Vốn ngân sách nhà nước do thành phố quản lý và phê duyệt căn cứ vào cân đối ngân sách hàng năm. Nguồn vốn này có được từ nguồn vốn NSTW cấp cho Thành phố và nguồn vốn ngân sách do Thành phố tự thu theo quy định của pháp luật. Vốn tín dụng Nhà nước phụ thuộc vào nguồn lực của các quỹ tín dụng và chính sách ưu đãi của Thành phố. Trong điều kiện ngân sách nhà nước hạn hẹp, việc trông chờ vào các dự án phân bổ từ ngân sách nhà nước Trung ương không đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Vì thế, địa phương cần phải huy động các nguồn khác để bổ sung vào ngân sách của mình. Cơ chế phân chia các khoản thu giữa Trung ương và địa phương và thẩm quyền của địa phương trong các hoạt động thu ngân sách sẽ tác động rất lớn đến hoạt động này.
Trong giai đoạn thực hiện đô thị hóa, việc huy động vốn thông qua hình thức đấu giá quyển sử dụng đất được rất nhiều địa phương áp dụng. Bên cạnh đó, khai thác giá trị gia tăng của đất đai nhờ phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là một nguồn rất quan trọng. Nhiệm vụ của quản lý nhà nước là thu hút được nguồn vốn này đạt được kết quả cao nhất với chi phí tài nguyên đất đai hợp lý, đem lại lợi ích cho cả xã hội và nhà đầu tư. Để đạt được điều đó, các chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư đóng vai trò hết sức quan trọng.
2.3.3. Phân bổ, quản lý thanh, quyết toán vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Căn cứ vào chủ trương, phương hướng và mục tiêu đầu tư, các định mức, khả năng nguồn vốn… danh mục các dự án từ nguồn vốn này được phê duyệt. kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được phát triển như thế nào phụ thuộc rất lớn vào giai đoạn này.
Trên cơ sở phân bổ vốn chung cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, việc phân bổ vốn và quản lý thanh, quyết toán cho từng dự án xây dựng giao thông đô thị có thể được thực hiện theo các phương thức sau:
– Phân bổ và thanh, quyết toán vốn đầu tư theo từng bước của dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Đây là phương thức mà việc phân bổ vốn cho dự án căn cứ vào giá trị khối lượng công việc dự kiến thực hiện trong năm kế hoạch, việc thanh toán vốn dựa vào giá trị khối lượng công trình hoàn thành thực tế trong năm.
– Phân bổ và thanh, quyết toán vốn cho dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị theo mô hình “mua” công trình theo hướng tổng thầu “chìa khoá trao tay”. Việc phân bổ và thanh toán vốn theo mô hình này không nhất thiết phải dựa vào giá trị khối lượng công trình hoàn thành thực tế trong năm.
– Phân bổ và thanh, quyết toán vốn cho dự án xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị theo phương thức gắn với đầu ra và kết quả. Việc phân bổ vốn căn cứ đầu ra của hoạt động đầu tư xây dựng được dự kiến theo năm kế hoạch, việc thanh toán vốn dựa vào giá trị khối lượng công trình hoàn thành thực tế trong năm và các điều khoản cụ thể trong hợp đồng xây dựng.
Việc thanh, quyết toán đối với vốn đầu tư các công trình xây dựng đã phức tạp, với vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị lại càng phức tạp hơn bởi các công trình giao thông đô thị thường có giá trị lớn, thời gian thi công dài, địa điểm không cố định và có dự toán, thiết kế, phương pháp thi công riêng nên càng phức tạp. Do đó, để việc thanh, quyết toán vốn đầu tư thuận lợi, các cơ quan quản lý nhà nước cần có sự hướng dẫn cụ thể, chính xác, kịp thời các thủ tục thanh, quyết toán cho các chủ đầu tư. Các cơ quan quản lý nhà nước cũng cần có những quy định cụ thể về thời hạn thanh, quyết toán và những chế tài đối với chủ đầu tư khi chậm thanh, quyết toán vốn đầu tư xây dựng công trình.
2.3.4. Kiểm tra, giám sát vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Kiểm tra, giám sát hoạt động sử dụng vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là hoạt động của cơ quan quản lý nhà nước (cụ thể là UBND thành phố) trong quá trình huy động, phân bổ và sử dụng vốn đầu tư thuộc thẩm quyền quyết định của mình. Đây là hoạt động rất quan trọng, triển khai trước, trong và sau khi dự án được phê duyệt. Các dự án này chủ yếu là thuộc nguồn ngân sách của thành phố. Với các dự án thuộc các nguồn vốn khác, việc kiểm tra, giám sát vốn chỉ thực hiện trong quá trình lập và phê duyệt dự án còn quá trình thực hiện thì chỉ kiểm tra tiến độ thực hiện, việc tuân thủ pháp luật và bảo vệ môi trường…
Kiểm tra, giám sát vốn đầu tư nhằm đảm bảo cho hoạt động đầu tư vốn của dự án phát triển giao thông đô thị đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao, phù hợp với mục tiêu, định hướng phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng đô thị nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nói riêng. Công tác này còn giúp cho quá trình huy động, phân bổ và sử dụng vốn đầu tư tiến hành theo đúng khuôn khổ pháp luật, chính sách của Nhà nước. Kiểm tra, giám sát còn giúp cơ quan quản lý đầu tư nắm sát và đánh giá đúng tình hình sử dụng vốn, tiến độ giải ngân và những tồn tại, khó khăn trong quá trình đầu tư vốn để có biện pháp điều chỉnh thích hợp; phát hiện và ngăn chặn kịp thời những sai phạm và tiêu cực gây thất thoát, lãng phí vốn trong quá trình thực hiện đầu tư.
Trong kiểm tra, giám sát quản lý vốn đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đô thị cần có sự tham gia của các cơ quan thanh tra chuyên ngành như thanh tra tài chính, thanh tra xây dựng, thanh tra giao thông vận tải và các cơ quan thanh tra có liên quan nhằm ngăn ngừa các sai phạm, kịp thời phát hiện và xử lý các sai phạm. Công tác kiểm toán các công trình cũng hết sức quan trọng nhằm phát hiện ra các sai phạm trong quá trình sử dụng vốn như sử dụng không đúng mục đích, không đúng theo dự toán đã được phê duyệt… Trên cơ sở kết quả kiểm toán, các cơ quan thanh tra sẽ phát hiện ra các sai phạm và tiến hành xử lý theo đúng quy định của pháp luật.
Bên cạnh đó, việc giám sát của cộng đồng dân cư thông qua các tổ chức xã hội, đoàn thể quần chúng cũng rất quan trọng. Nó góp phần làm cho việc thực hiện dự án đúng quy định, tiết kiệm, có hiệu quả hơn.
2.4. Tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Đánh giá quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là vấn đề khá phức tạp bởi những đặc điểm khác biệt của kết cấu hạ tầng giao thông đô thị cũng như đặc điểm nguồn vốn đầu tư. Có nhiều cách đánh giá như qua việc thể hiện vai trò quản lý, qua nội dung quản lý, qua hiệu quả quản lý… Ở đây sẽ đánh giá quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị qua nội dung quản lý.
2.4.1. Tiêu chí đánh giá kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Đánh giá việc lập kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị thể hiện ở các tiêu chí sau đây:
– Tính phù hợp của quy trình, chất lượng lập kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị trước hết phải phù hợp với tình hình kinh tế – xã hội của Thành phố. Với điều kiện nền kinh tế còn khó khăn, nguồn vốn có hạn trong khi nhu cầu đầu tư lại cao thì việc lập các dự án xây dựng các công trình giao thông đô thị trong điều kiện cho phép cũng là một tiêu chí xem xét mức độ phù hợp của kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị Thành phố.
Bên cạnh đó, kế hoạch vốn cũng cần phù hợp với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng đô thị của Thành phố nói chung và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nói riêng. Do đó, để đảm bảo tính phù hợp, kế hoạch vốn đầu tư này phải tuân thủ đúng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đã được phê duyệt. Mức độ phù hợp là một tiêu chí đánh giá chất lượng kế hoạch vốn. Đảm bảo mức độ phù hợp sẽ giúp cho kế hoạch vốn khả thi và hiệu quả hơn.
– Tính khả thi của kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị đảm bảo tính khả thi, tức đảm bảo sự cân đối giữa nhu cầu vốn và khả năng huy động, cân đối các nguồn vốn đầu tư. Ở các thành phố đang trên đà đổi mới và phát triển, nhu cầu đầu tư vốn vào phát triển kết cấu hạ tầng đô thị nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông đô thị nói riêng rất lớn. Chính vì vậy mà khi lập kế hoạch vốn cần xem xét đến khả năng huy động các nguồn vốn. Các nguồn này cần phải được cân đối để phân chia cho các dự án được đầy đủ, tránh tình trạng dự án nhiều mà khả năng cấp vốn lại hạn chế, làm gián đoạn tiến độ cũng như kéo dài thời gian thực hiện dự án.
Kế hoạch vốn đảm bảo tính khả thi chứng tỏ quản lý nhà nước trong huy động, phân bổ và sử dụng vốn đầu tư đạt được hiệu quả. Nếu thực hiện kế hoạch vốn khó khăn, không đảm bảo vốn đầu tư sẽ làm công tác quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị không đạt được hiệu quả mong muốn.
– Tính hiệu quả của kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị Tính hiệu quả của kế hoạch vốn đầu tư được xem xét trước hết ở việc
các dự án phải được xây dựng đúng mục đích, đúng nội dung, đúng địa chỉ. Các dự án đầu tư vốn phải được lập theo đúng mức độ cần thiết và thứ tự ưu tiên đầu tư của các công trình. Mức độ cấp thiết của các dự án càng lớn thì lợi ích mà nó mang lại càng cao.
Bên cạnh đó, hiệu quả của kế hoạch còn được thể hiện ở việc kế hoạch lập ra trên cơ sở chuẩn bị và nghiên cứu kỹ càng, có khả năng lường trước các vấn đề có thể xảy ra để hạn chế việc điều chỉnh kế hoạch. Trong khi lập kế hoạch, các vấn đề liên quan đến nguồn vốn như dự toán chi tiết các khoản mục phải được lập chính xác, đầy đủ để đảm bảo trong quá trình thực hiện kế hoạch, tổng dự toán không thay đổi và phải điều chỉnh bổ sung.
2.4.2. Tiêu chí đánh giá tính hợp lý, hiệu quả của huy động vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Huy động các nguồn vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị là việc đưa kế hoạch vốn đầu tư vào thực hiện trong thực tế. Tiêu chí đánh giá khâu công việc này là mức độ phù hợp, về quy mô và tiến độ huy động vốn so với yêu cầu thực hiện dự án. Việc đánh giá được xem xét ở các tiêu chí sau:
– Mức độ đáp ứng về quy mô so với nhu cầu của các nguồn vốn huy động được: Chỉ tiêu này sẽ cho chúng ta thấy kết quả đạt được của công tác huy động vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị của Thành phố. Mức độ đáp ứng nhu cầu càng cao chứng tỏ huy động càng hiệu quả và ngược lại. Huy động đáp ứng được so với nhu cầu sẽ làm cho việc thực hiện kế hoạch sử dụng vốn được thuận lợi, tạo điều kiện cho việc thực hiện đúng tiến độ của dự án.
Chi phí huy động vốn: Huy động vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị đòi hỏi một lượng chi phí nhất định, nhất là những khoản chi phí đánh đổi lấy vốn đầu tư như trong trường hợp đổi tài nguyên đất đai hay các chính sách tạo thuận lợi cho việc huy động vốn của doanh nghiệp tư nhân hoặc dân cư. Huy động vốn được đánh giá tốt khi chi phí bỏ ra ít mà lượng vốn đầu tư thu được lớn và ngược lại.
– Tỷ trọng đóng góp của các loại hình vốn trong tổng nguồn vốn: Mỗi loại nguồn vốn chiếm một tỷ lệ khác nhau trong kế hoạch đã được phê duyệt. Trong quá trình huy động vốn, kết quả huy động đạt được rất khác nhau. Do đó, khi xem xét tỷ trọng đóng góp của mỗi loại nguồn vốn sẽ cho ta biết khả năng quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước của Thành phố. Nếu tỷ lệ nguồn vốn ngân sách Thành phố (NSTP) lớn chứng tỏ việc huy động vốn của các cơ quan này chưa tốt, nguồn lực vốn đầu tư chỉ phụ thuộc vào ngân sách sẵn có. Với nguồn lực ngân sách có hạn thì việc này sẽ ảnh hưởng đến việc đầu tư và phát triển của các ngành, lĩnh vực khác. Nếu tỷ lệ nguồn vốn ngoài ngân sách lớn chứng tỏ công tác huy động vốn đã thực hiện tốt, thu hút được nhiều nguồn vốn dồi dào trong xã hội, đóng góp lớn vào việc phát triển hệ thống giao thông của Thành phố.
2.4.3. Tiêu chí đánh giá chất lượng phân bổ, quản lý thanh, quyết toán vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Đánh giá quản lý nhà nước đối với công tác phân bổ, quản lý thanh, quyết toán vốn đầu tư cần xem xét các nội dung sau:
– Tính hợp lý trong ưu tiên mục tiêu và đối tượng phân bổ vốn
Để thực hiện tốt mục tiêu phát triển hệ thống giao thông đô thị có rất nhiều công trình cần được xây dựng. Tuy nhiên, với nguồn ngân sách có hạn thì việc phân bổ ngân sách đúng đối tượng ưu tiên là một việc rất quan trọng.Thứ tự ưu tiên cần được sắp xếp cho các dự án đã và sắp hoàn thành để giải quyết dứt điểm các dự án này, tránh dây dưa, nợ đọng, gây khó khăn cho các đơn vị thực hiện và sớm đưa công trình vào sử dụng, phục vụ kịp thời nhu cầu đi lại, vận chuyển của dân chúng. Sau đó, cần phân bổ vốn cho các dự án mới được phê duyệt thực sự cấp bách, giải quyết tình trạng đi lại khó khăn của số đông người dân và liên quan nhiều đến các ngành và lĩnh vực khác.
Việc đảm bảo đúng thứ tự ưu tiên chứng tỏ công tác quản lý nhà nước đã thực hiện được đúng mục tiêu đề ra.
– Mức độ phân bổ phù hợp với tiến độ thực hiện dự án
Trong kế hoạch vốn đầu tư đã phê duyệt luôn đề ra tiến độ phân bổ vốn của từng giai đoạn. Ứng với những dự án khác nhau thì tiến độ cấp vốn là khác nhau. Tuỳ vào việc lựa chọn hình thức phân bổ để cấp phát vốn cho hợp lý. Việc phân bổ vốn theo đúng tiến độ sẽ giúp cho việc thực hiện các dự án được thuận lợi, tránh những hệ quả đáng tiếc do chậm tiến độ công trình gây ra, nhất là với các dự án giao thông đô thị, là dự án có ảnh hưởng đến số đông dân chúng và nhiều ngành, lĩnh vực khác. Do đó, mức độ hoàn thành cấp vốn theo tiến độ sẽ đánh giá được kết quả quản lý nhà nước của công tác phân bổ vốn. Nó sẽ cho ta biết tình hình cấp vốn cũng như tiến độ hoàn thành của từng dự án. Nếu mức độ cấp vốn theo tiến độ cao chứng tỏ công tác phân bổ vốn thực hiện tốt và ngược lại. Điều này sẽ ảnh hưởng đến việc hoàn thành và hiệu quả của dự án.
– Tính công khai, minh bạch trong phân bổ vốn đầu tư
Trong phân bổ vốn đầu tư, sự công khai, minh bạch là yếu tố rất quan trọng. Kế hoạch phân bổ vốn càng được công khai, minh bạch sẽ càng giúp cho các cơ quan quản lý cũng như các đơn vị thực hiện biết được quá trình và mức độ phân bổ rõ ràng hơn. Công khai, minh bạch trong phân bổ vốn đầu tư còn tránh được những mất mát, tổn thất trong quá trình thực hiện. Từ đó giúp công tác quản lý nguồn vốn đầu tư được tốt hơn.
– Tính cụ thể, chính xác, kịp thời khi hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thanh, quyết toán vốn đầu tư
Công tác thanh, quyết toán vốn đầu tư là khâu cuối cùng trong việc thực hiện đầu tư vốn cho các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Chỉ khi việc quyết toán vốn hoàn thành thì việc thực hiện dự án mới kết thúc. Do đó đòi hỏi việc thanh, quyết toán phải được tiến hành nhanh chóng và chính xác. Nhiệm vụ quản lý nhà nước đối với công tác này là phải hướng dẫn, kiểm tra sao cho việc thanh, quyết toán được tiến hành thuận lợi nhất. Do đó, tính cụ thể, chính xác, kịp thời khi hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện thanh, quyết toán vốn đầu tư sẽ là tiêu chí đánh giá quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
– Tỷ lệ thanh, quyết toán hoàn thành trong năm. Tiêu chí này được đo bằng tỷ lệ vốn đã quyết toán so với vốn đã tạm ứng trong năm. Tỷ lệ này càng cao chứng tỏ công tác quản lý càng tốt và ngược lại. Đối ngược với tiêu chí này chính là mức độ nợ đọng vốn đầu tư. Tiêu chí này đo lường và tỷ lệ nghịch với chất lượng quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Việc thực hiện phân bổ, thanh, quyết toán được đánh giá tốt khi mức độ nợ đọng vốn đầu tư thấp, thời gian nợ đọng ngắn.
2.4.4. Tiêu chí đánh giá chất lượng kiểm tra, giám sát vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Việc đánh giá chất lượng kiểm tra, giám sát vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được đo lường bằng các tiêu chí sau đây:
– Mức độ hợp lý của kiểm tra, giám sát
Công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá hợp lý sẽ giúp cho quá trình quản lý được thực hiện tốt, phát hiện kịp thời những nguy cơ, dấu hiệu rủi ro tài chính và vấn đề nảy sinh, từ đó có biện pháp phòng ngừa và xử lý hiệu quả. Kiểm tra, giám sát, đánh giá tốt sẽ nâng cao ý thức chấp hành pháp luật, kỷ cương của các cơ quan, đơn vị sử dụng vốn đầu tư.
– Mức độ đầy đủ của nội dung kiểm tra, giám sát
Để việc kiểm tra, giám sát có hiệu quả, các nội dung kiểm tra cần đầy đủ, bao quát hết quá trình đầu tư vốn. Các khâu kiểm tra, giám sát càng đầy đủ càng thể hiện vai trò, trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước. Nó cũng sẽ giúp các cơ quan quản lý phát hiện các nội dung còn sai phạm để từ đó có những điều chỉnh kịp thời.
– Mức độ chính xác, minh bạch của công tác kiểm tra, đánh giá
Tiêu chí này phản ánh trình độ, năng lực và phẩm chất của cơ quan quản lý nhà nước đối với việc quản lý vốn đầu tư. Mức độ chính xác và minh bạch của công tác kiểm tra, giám sát càng cao chứng tỏ trình độ, năng lực của cơ quan quản lý càng tốt và ngược lại. Tiêu chí này được đánh giá qua sự phản ánh đầy đủ, kịp thời, trung thực, khách quan các nội dung giám sát, đánh giá vốn đầu tư. Công tác kiểm tra, đánh giá chính xác là căn cứ để các cơ quan quản lý nhà nước phát hiện ra những vấn đề xảy ra và nguyên nhân để có thể xử lý đúng đắn, góp phần hạn chế các sai phạm.
– Tính hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm tra, giám sát
Tính hiệu lực, hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát được phản ánh thông qua việc đánh giá hệ thống chế tài được thiết kế có cụ thể, đủ mạnh và rõ ràng đối với các trường hợp vi phạm, đồng thời phải gắn với quyền và trách nhiệm của từng chủ thể liên quan đến việc sử dụng vốn đầu tư hay không?
Đi đôi với hệ thống chế tài, các hình thức khen thưởng về tinh thần và lợi ích kinh tế cũng phải thiết lập phù hợp để có tác dụng khuyến khích các chủ thể thực hiện tốt.
Tính hiệu quả của công tác kiểm tra, giám sát còn được đánh giá ở mức độ thất thoát vốn trong quá trình đầu tư. Một hệ thống kiểm tra, giám sát tốt tức là hệ thống khiến cho quá trình thực hiện đầu tư vốn ít sai phạm, hạn chế thất thoát và đạt được mục tiêu đề ra với tiến độ theo phê duyệt. Để đánh giá, chúng ta thường hay xem xét tỷ lệ thất thoát vốn so với vốn thực hiện và các nguyên nhân. Hiện tượng thất thoát có thể do rất nhiều nguyên nhân như:
quyết định đầu tư sai, lập kế hoạch không sát thực tế gây kéo dài tiến độ, thực hiện dự án thiếu kiểm tra, đặc biệt là khâu giám sát, nghiệm thu không nghiêm, để xảy ra nhiều tiêu cực… Đây là vấn đề rất khó đánh giá bởi vì với từng dự án công việc này đã rất khó khăn màcông tác quản lý vốn của cơ quan Nhà nước đòi hỏi phải tổng hợp được tất cả các dự án. Do đó, trên thực tế, các đánh giá này thường mới chỉ là định tính, chưa có những đánh giá định lượng cụ thể. Đây cũng chính là điều cần được quan tâm trong thời gian tới.
Bên cạnh đánh giá theo nội dung thì những đánh giá về kết quả thực hiện mục tiêu sẽ cho chúng ta cái nhìn toàn diện hơn về quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Quản lý được đánh giá tốt khi đạt được những mục tiêu đề ra. Cụ thể, chúng ta sẽ đánh giá mức độ hoàn thành của việc huy động các nguồn vốn cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, mức độ hợp lý của công tác phân bổ vốn đầu tư, mức độ hạn chế thất thoát, lãng phí vốn và hiệu quả của phát triển hệ thống giao thông đô thị.
2.5. Các nhân tố ảnh hưởng đến quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
– Hệ thống pháp luật và chính sách quản lý vốn đầu tư trong phát triển của quốc gia và thành phố
Các văn bản pháp luật và chính sách này chính là “kim chỉ nam” cho hoạt động quản lý vốn đầu tư. Do đó, nó có ảnh hưởng rất lớn đến quản lý vốn đầu tư trong phát triển KCTGTĐT của Thành phố.
Các văn bản pháp luật của Nhà nước là nhân tố khách quan, có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Nó tạo điều kiện cho các chủ thể quản lý cũng như đối tượng quản lý chủ động thực hiện quyền, trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong quá trình quản lý và thực hiện đầu tư vốn vào các dự án giao thông đô thị. Với hệ thống văn bản pháp luật đồng bộ, đầy đủ, hoàn chỉnh và không chồng chéo sẽ tạo điều kiện cho công tác quản lý vốn đầu tư được thuận lợi và mang lại kết quả tốt. Ngoài ra nó còn có tác dụng hạn chế, kiểm soát, phòng, chống thất thoát, lãng phí vốn đầu tư tại các dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị, đảm bảo sử dụng vốn đầu tư ngày càng phù hợp với cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành các quy phạm pháp luật của Nhà nước, các quy định, quyết định và chính sách có liên quan đến quản lý vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị do Thành phố ban hành mang yếu tổ chủ quan, tác động trực tiếp đến hoạt động và chu trình quản lý. Chính sách quản lý vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị tác động vào hoạt động đầu tư vốn nhằm huy động, phân bổ vốn một cách hiệu quả cho thực hiện các dự án xây dựng công trình giao thông để đạt được mục tiêu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng của mình. Các chính sách này sẽ tác động đến quản lý vốn đầu tư trong phát triển của Thành phố, góp phần tích cực vào việc thu hút, huy động và sử dụng các nguồn vốn vào phát triển giao thông đô thị, giúp cho công tác quản lý vốn đầu tư được tiến hành thuận lợi hơn, đạt hiệu quả mong muốn.
– Mức độ áp dụng quy trình quản lý hiện đại trong quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Quy trình quản lý vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị bao gồm từ khâu lập kế hoạch vốn đầu tư, huy động vốn đầu tư, phân bổ vốn đầu tư và kiểm tra, giám sát thực hiện vốn đầu tư. Các quy định đối với mỗi khâu trong chu trình quản lý
Một quy trình quản lý hiện đại có khả năng gắn kết tất cả các khâu trong quy trình, tăng tính phối hợp giữa các bộ phận cũng như tăng khả năng kiểm tra, giám sát và phát hiện những bất cập cần điều chỉnh trong từng khâu của quy trình quản lý, tránh được hiện tượng câu kết lợi ích, “lợi ích nhóm” trong quản lý vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị. Đồng thời, quy trình quản lý hiện đại sẽ cho phép áp dụng công nghệ thông tin vào quản lý, giảm thời gian, tinh giảm bộ máy và tiết kiệm chi phí quản lý.
Việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến sẽ giúp cho quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được nhanh chóng và hiện quả hơn. Hệ thống quản lý hiện đại với phầm mềm được thiết kế những công cụ trợ giúp, các hệ thống biểu mẫu phân tích sẽ góp phần đánh giá đầy đủ các chỉ tiêu đầu tư và hoạch định chính sách cho các cơ quan lập và phê duyệt kế hoạch vốn hàng năm của dự án. Ngoài ra, hệ thống sẽ giúp giảm tải việc nhập liệu của các cơ quan, trao đổi thông tin kịp thời trong suốt quá trình từ phân bổ vốn đến kế hoạch vốn và thanh toán, quyết toán vốn. Việc áp dụng phần mềm quản lý hiện đại vì thế sẽ giúp các cơ quan quản lý huy động, phân bổ và thanh, quyết toán vốn đầu tư được dễ dàng, đầy đủ hơn. Nhờ đó các cơ quan quản lý có thể theo dõi, phát hiện và điều chỉnh kịp thời các vấn đề phát sinh trong khi thực hiện đầu tư vốn cho các công trình giao thông đô thị.
– Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Tổ chức bộ máy quản lý chính là nhân tố quyết định của công tác quản lý. Muốn hoạt động quản lý có hiệu quả thì trước hết cần có một bộ máy quản lý tốt, đủ năng lực hoạt động. Dưới góc độ quản lý cấp Thành phố, bộ máy quản lý vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị chính là các chủ thể của quản lý vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đô thị địa phương, hoạt động theo chức năng, quyền hạn của mình.
Một bộ máy quản lý tốt là bộ máy đồng bộ, có đủ các cơ quan chức năng để thực hiện quản lý tất cả các khâu trong hoạt động liên quan tới vốn đầu tư trong phát triển hệ thống giao thông đô thị. Các cơ quan này có sự phối hợp chặt chẽ với nhau trong các hoạt động quản lý nhằm giải quyết những vấn đề xảy ra trong quá trình thực hiện. Ngược lại, nếu tổ chức bộ máy quản lý thiếu hụt, không bao quát hết các khâu của quá trình quản lý hoặc bộ máy cồng kềnh, chồng chéo chức năng và nhiệm vụ thì hoạt động quản lý sẽ gặp nhiều khó khăn. Tình trạng bỏ ngỏ hoặc trùng lặp trong quản lý của các cơ quan này sẽ không điều chỉnh hết các sai phạm phát sinh hay gây khó khăn cho các đơn vị thực hiện.
Với bộ máy quản lý, vấn đề cốt lõi là công tác cán bộ. Một bộ máy quản lý tốt là bộ máy có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, trình độ chuyên môn cũng như phẩm chất đạo đức. Với bộ máy quản lý vốn đầu tư, các tiêu chuẩn này lại càng quan trọng. Năng lực, trình độ chuyên môn của cán bộ sẽ ảnh hưởng tới chất lượng công tác quản lý ở tất cả các nội dung như: ban hành văn bản quy phạm pháp luật, chính sách, lập kế hoạch vốn, tổ chức thực hiện cũng như kiểm tra, giám sát vốn đầu tư… Ở cương vị quản lý, nhất là quản lý vốn thì phẩm chất đạo đức tốt, trong sạch sẽ giúp cho các cán bộ quản lý tránh xa được các vi phạm, tiêu cực của bản thân cũng như phát hiện và xử lý tiêu cực được nhanh chóng, chính xác hơn. Công tác đầu tư xây dựng giao thông sẽ tránh được hiện tượng tham nhũng, gây thất thoát vốn, làm giảm chất lượng và hiệu quả của công trình. Nếu tổ chức bộ máy với đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng được yêu cầu như trên, công tác quản lý sẽ đạt được kết quả cao.
Chính vì thế, cần chú trọng quan tâm tổ chức bộ máy để giúp cho công tác quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị được thuận lợi và có hiệu quả.
– Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của thành phố
Chiến lược, quy hoạch của thành phố, kế hoạch phát triển giao thông vận tải chính là căn cứ để kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị như nhu cầu về vốn, nguồn vốn và các giải pháp huy động vốn… được xây dựng và phê duyệt. Do đó, chất lượng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giao thông vận tải của thành phố có ảnh hưởng rất lớn tới kế hoạch vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
Chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển giao thông vận tải của thành phố được nghiên cứu cẩn thận, có tầm nhìn xa, được xây dựng chi tiết, cụ thể sẽ giúp cho công tác lập kế hoạch vốn được thuận lợi, việc sử dụng vốn đầu tư cho các công trình giao thông đem lại kết quả cao, đáp ứng yêu cầu phát triển của Thành phố. Ngược lại, nếu công tác quy hoạch giao thông manh mún, thiếu tầm nhìn xa sẽ dẫn đến tình trạng các công trình giao thông ít giá trị hoặc phải điều chỉnh lại công năng sử dụng, thậm chí ảnh hưởng đến các công trình khác. Điều này sẽ gây thất thoát, lãng phí khi sử dụng vốn đầu tư vào các công trình, làm giảm hiệu quả của vốn đầu tư và quản lý vốn đầu tư trong phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị.
– Đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của thành phố và tính chất của kết cấu hạ tầng giao thông đô thị
Đây là nhân tố khách quan, có ảnh hưởng trực tiếp đến nhu cầu và nguồn vốn đầu tư cho phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị của thành phố. Mỗi một địa phương khác nhau, tuỳ thuộc vào đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau mà có nhu cầu và nguồn lực vốn đầu tư khác nhau.
Một thành phố có vị trí chính trị quan trọng với quốc gia sẽ được quan tâm đầu tư hơn thành phố, địa phương khác. Đặc biệt với thành phố là thủ đô, trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của cả nước thì càng nhận được nhiều ưu đãi hơn. Thành phố sẽ được ưu tiên trong việc phân bổ các nguồn lực, nhất là ngân sách nhà nước vào phát triển, đặc biệt là phát triển kết cấu hạ tầng, trong đó phát triển hệ thống giao thông luôn được quan tâm hàng đầu.
Điều kiện kinh tế khác nhau cũng làm cho nguồn lực vốn đầu tư của thành phố, địa phương khác nhau. Với những thành phố, địa phương có điều kiện kinh tế phát triển, nguồn vốn ngân sách dồi dào thì việc đầu tư vốn vào phát triển giao thông, đặc biệt là giao thông đô thị càng thuận lợi. Mặt khác, với các thành phố phát triển, các doanh nghiệp và người dân có thu nhập cao nên việc huy động vốn đầu tư cũng dễ dàng hơn so với các thành phố, địa phương gặp nhiều khó khăn.
Với các thành phố lớn, đặc biệt là thủ đô, tốc độ đô thị hoá nhanh cũng ảnh hưởng đến vốn cho xây dựng, nâng cấp và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đô thị để phù hợp với mức độ phát triển của đô thị trong từng giai đoạn. Cùng với đó là xu hướng tập trung hóa đô thị cũng tạo ra sự chuyển dịch dân cư từ nông thôn ra thành thị dẫn đến tình trạng dân cư đông đúc, ách tắc giao thông tăng. Điều đó càng làm cho nhu cầu đầu tư vốn để phát triển giao thông nhằm giải quyết nhu cầu đi lại, vận chuyển của dân cư tăng cao.
Bên cạnh đó, đặc điểm của KHCHTGT ở khu vực đô thị cũng có sự khác biệt, ảnh hưởng đến quản lý vốn đầu tư như: địa bàn phức tạp, khối lượng đền bù giải phóng mặt bằng lớn, việc thi công phức tạp, ảnh hưởng đến nhiều đối tượng..
Tất cả các nhân tố trên đã ảnh hưởng đến quản lý nhà nước đối với vốn đầu tư trong phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đô thị của Thành phố, nhất là công tác huy động và phân bổ nguồn vốn.