Việc nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới quản lý nhà nước công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương.
1. Khái quát chung về thi đua, khen thưởng
1.1. Khái niệm thi đua
Từ lâu, các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin đã coi thi đua như là một đặc trưng riêng có trong xã hội chủ nghĩa. C.Mác và Ph.Ăng-ghen cho rằng, trong xã hội tương lai, cạnh tranh sẽ không còn; thay vào đó là sự thi đua lẫn nhau giữa những người lao động trong quá trình sản xuất. Khi Cách mạng Tháng Mười Nga thành công, nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới ra đời để lãnh đạo xây dựng xã hội mới, V. I. Lênin đòi hỏi “nhiệm vụ của chúng ta hiện nay, khi chính phủ xã hội chủ nghĩa đang cầm quyền, là tổ chức thi đua”[45, tr.235].
Khi phân tích quá trình hợp tác lao động xã hội, C.Mác đã phát hiện ra đặc điểm tâm lý thi đua của con người trong lao động và giao tiếp. Theo C.Mác, thi đua là một hiện tượng xã hội; thi đua nảy sinh trong quá trình tổ chức và phân công lao động xã hội. Ông viết “… ngay sự tiếp xúc xã hội cũng đẻ ra thi đua, cũng kích thích nguyên khí làm tăng năng suất cá nhân của từng người riêng rẽ… Đó là vì con người ta, do bản tính, nếu không phải là động vật chính trị như Arixtôt nói, thì dầu sao cũng là một động vật xã hội”[19, tr.474]. C.Mác cũng sử dụng khái niệm tinh thần thi đua để nói về tâm lý thi đua giữa những người trong lao động trong quá trình hợp tác.
Nghiên cứu quá trình hợp tác giữa con người và con người trong lao động sản xuất, thấy được hiện tượng diễn ra một cách khách quan trong quá trình hợp tác lao động, Mác đã đưa ra khái niệm về thi đua “Thi đua nảy nở trong quá trình hợp tác lao động, trong hoạt động chung và kế hoạch của con người. Sự tiếp xúc xã hội tạo nên thi đua và sự nâng cao theo lối đặc biệt nghị lực sinh động tăng thêm nghị lực cho riêng từng người”
Bàn về ngày thứ bảy lao động cộng sản Lênin đã nói đến thi đua xã hội chủ nghĩa đó là phong trào lao động tự nguyện, góp sức giải quyết khó khăn, xây dựng xã hội mới của quần chúng lao động được giải phóng khỏi ách áp bức bóc lột. Lênin coi đây là một sáng kiến vĩ đại, chính quyền cách mạng cần chăm lo, tổng kết, phổ biến sáng kiến kinh nghiệm.
Theo Phêđôxêép nhà khoa học Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô trước đây cho rằng “Thi đua là sự đọ sức trong lao động và sáng tạo, mang đặc tính của con người trong xã hội, được sinh ra bởi sự hợp tác lao động và bởi mối quan hệ xã hội của con người trong quá trình sản xuất…”, ” Thi đua xã hội chủ nghĩa là mối quan hệ xã hội mới có lịch sử. Nó mang tính sáng tạo xã hội của giai cấp công nhân, …thi đua xã hội chủ nghĩa xuất hiện như là nhiệt tình cách mạng là hành động tự giác của quần chúng lao động – những người đã tổ chức sản xuất xã hội theo kiểu mới trong lao động” [25, tr.60].
Ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chú trọng đến công tác thi đua. Theo chủ tịch Hồ Chí Minh thi đua tồn tại khách quan trong xã hội, người dạy “…Tưởng lầm rằng thi đua là một việc khác với những công việc hàng ngày. Thật ra công việc hàng ngày chính là nền tảng thi đua”. Thi đua là một hiện tượng khách quan, là qui luật phát triển tất yếu trong quá trình hợp tác lao động của con người. Ở đâu có hợp tác lao động thì ở đó nảy sinh thi đua.
Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, thi đua yêu nước bao giờ cũng là phong trào thi đua tập thể của những công nhân, nông dân, trí thức, những người lao động tự mình làm chủ vận mệnh của mình, không đối kháng về lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; mọi người mang hết nhiệt tình và khả năng của mình ra để xây dựng đất nước.
Nguyên tắc quan trọng nhất của thi đua xã hội chủ nghĩa là đoàn kết, hợp tác cùng phát triển, phổ biến sáng kiến, kinh nghiệm; Người tiền tiến thân ái giúp đỡ người chậm tiến để đạt tới sự tiến bộ chung. Hoàn toàn không giống với bí mật thương nghiệp trong cạnh tranh. Thi đua xã hội chủ nghĩa chẳng những nhằm mục tiêu kinh tế mà còn nhằm xây dựng con người mới, rèn luyện nhân cách cao đẹp cho người lao động.
Thi đua phải có mục đích, mục tiêu. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Thi đua ái quốc nhằm 3 mục đích chính: diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm. Tức là làm cho nhân dân no, ấm, biết chữ, làm Tổ quốc độc lập, tự do” [27, tr.658].
Nói như vậy thi đua có ý nghĩa nhân văn, nhân đạo cao cả. Thông qua thi đua để giáo dục động viên mọi người, nâng cao lòng yêu nước, ý thức giác ngộ giai cấp, trách nhiệm công dân và tính cộng đồng xã hội.
Công tác thi đua qua những chặng đường lịch sử, đặc biệt thấy rõ vai trò thi đua thời kỳ đổi mới, trong cơ chế thị trường Nhà nước đã có Luật Thi đua, khen thưởng ngày 26/11/2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng ngày 16/11/2013 quy định : “Thi đua là hoạt động có tổ chức với sự tham gia tự nguyện của các cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạt được thành tích tốt nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.1.1. Nguyên tắc thi đua
Khoản 1, Điều 6, Luật Thi đua, Khen thưởng quy định: “Nguyên tắc thi đua gồm tự nguyện, tự giác, công khai; đoàn kết, hợp tác và cùng phát triển”.
Để đạt được mục tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của địa phương, đơn vị, cơ quan, tổ chức thì các cấp ủy Đảng và chính quyền phải lãnh đạo và tổ chức thực hiện phong trào thi đua một cách thiết thực; triển khai nhiều biện pháp tuyên truyền, vận động, giác ngộ quần chúng cho họ thất rõ vai trò, tác dụng của phong trào thi đua yêu nước đối với mỗi cá nhân, gia đình và xã hội; qua đó nhận thức đúng trách nhiệm của công dân có ý thức tự nguyện, tự giác tham gia. Nguyên tắc tự nguyện, tự giác để thể hiện quyền dân chủ của công dân; thấy rõ trách nhiệm của cơ quan tham mưu cho cấp ủy Đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể nhân dân trong công tác tuyên truyền, vận động quần chúng tham gia các phòng trào thi đua thực hiện nhiệm vụ chính trị.
Phòng trào thi đua muốn đạt được kết quả tốt, việc công khai có ý nghĩa quan trọng. Nội dung công khai gồm: công khai mục tiêu, mục đích, vai trò, tác dụng của phong trào thi đua; công khai trong kế hoạch, xây dựng tiêu chí thi đua, tổ chức phát động, ký giao ước thi đua; kiểm tra, đôn đốc, bình xét, suy tôn, biểu dương điển hình tiên tiến trong phong trào thi đua; công khai trong trao tặng danh hiệu, tiền thưởng, tuyên truyền nhân điển hình tiên tiến và công khai tài chính. Qua việc công khai, thể hiện tính minh bạch, dân chủ trong thi đua, góp phần tạo niềm tin trong mỗi cá nhân tham gia phong trào. Nguyên tắc công khai là cơ sở đảm bảo tính chính xác trong khen thưởng.
1.1.2. Hình thức tổ chức phong trào thi đua
Thi đua thường xuyên: là hình thức thi đua căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ được giao của cá nhân, tập thể tổ chức phát động, nhằm thực hiện tốt công việc hằng ngày, hằng tháng, hằng quý, hằng năm của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Đối tượng thi đua thường xuyên là các cá nhân trong một tập thể, các tập thể trong cùng một cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc giữa các đơn vị có chức năng, nhiệm vụ, tính chất công việc tương đồng nhau.
Thi đua theo chuyên đề (hoặc theo đợt): là hình thức thi đua nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ trọng tâm được xác định trong một khoảng thời gian nhất định hoặc tổ chức thi đua để phấn đấu hoàn thành nhiệm vụ đột xuất, cấp bách của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Cơ quan, tổ chức, đơn vị chỉ phát động thi đua theo chuyên đề (hoặc theo đợt) khi đã xác định rõ mục đích, yêu cầu, chỉ tiêu, nội dung, giải pháp và thời gian.
1.1.3. Danh hiệu thi đua
Theo Điều 7, Luật Thi đua, Khen thưởng, danh hiệu thi đua gồm:
–Danh hiệu thi đua đối với cá nhân;
–Danh hiệu thi đua đối với tập thể;
–Danh hiệu thi đua đối với gia đình.
Theo khoản 1, Điều 20, Luật Thi đua, khen thưởng quy định, danh hiệu thi đua đối với cá nhân gồm:
–“Chiến sỹ thi đua toàn quốc”
–“Chiến sỹ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương”
–“Chiến sỹ thi đua cơ sở”
–“Lao động tiên tiến”, “Chiến sỹ tiên tiến”
Khoản 2, Điều 20, Luật Thi đua, khen thưởng quy định, danh hiệu thi đua đối với tập thể gồm:
–“Cờ thi đua của Chính Phủ”
–“Cờ thi đua cấp bộ, ngành, tỉnh, đoàn thể trung ương”
–“Tập thể lao động xuất sắc”, “Đơn vị quyết thắng”
–“Tập thể lao động tiên tiến”, “Đơn vị tiên tiến”
–“Thôn, làng, ấp, bản, tổ dân phố văn hóa”
Khoản 3, Điều 20, Luật Thi đua, khen thưởng quy định, danh hiệu thi đua đối với hộ gia đình là “Gia đình văn hóa”
Các danh hiệu thi đua được xét tặng hằng năm theo đợt.
1.2. Khái niệm khen thưởng
Khen thưởng là công việc đã tồn tại khá lâu trong lịch sử xã hội, gắn liền với thưởng phạt của nhà nước thuộc các chế độ xã hội khác nhau.
Khen thưởng đã được thực hiện ở nước ta từ các triều đại phong kiến trước đây. Trong sách Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên đã ghi rõ những hình thức khen thưởng như sau:
“Khen thưởng người có công trong chiến trận Khen thưởng người có công trong việc đi sứ Khen thưởng người phò tá có công lao tài đức Khen thưởng người tiến cử, người hiền tài Khen thưởng người có lời tâu đúng
Khen thưởng người cấp dưới giữ đúng phép công, không vị nể người quyền quý cấp trên
Khen thưởng người có công làm thủy lợi
Khen thưởng người có tài văn chương
Khen thưởng người cao tuổi…” [44].
Qua những hình thức khen thưởng đó chứng tỏ các triều đình phong kiến đã biết khích lệ động viên mọi người hăng hái lập công, để được khen thưởng. Đó chính là tinh thần yêu nước sâu sắc của dân tộc.
Nguyễn Trãi đã từng nói: “Một Nhà nước mà thưởng phạt nghiêm minh, kịp thời là nhà nước vững mạnh. Nhà nước nào phạt nhiều hơn thưởng là nhà nước đang suy tàn. Nhà nước nào thưởng nhiều hơn phạt là nhà nước phồn vinh”
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh (Bác Hồ) đã rất quan tâm đến việc biểu dương khích lệ động viên người tốt, việc tốt. Mỗi khi đọc báo, nghe đài, thấy có nghĩa cử đẹp là Bác Hồ cho đi kiểm tra ngay để Bác Hồ khen thưởng. Bác thường nhắc nhở khen thưởng phải chính xác và kịp thời để động viên phát huy mặt ưu điểm, tích cực, khắc phục và đẩy lùi mặt khuyết điểm, tiêu cực nhằm xây dựng con người mới vì mục tiêu dân giầu nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ văn minh.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ thị “Có công thì thưởng, có lỗi thì phạt, khen thưởng phải có tác dụng giáo dục, động viên, nêu gương…” khen thưởng còn là một chính sách của nhà nước để ghi công, tôn vinh các cá nhân, tập thể có thành tích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khen là sự nhận xét đánh giá tốt về một con người nào đó; tổ chức nào đó, về cái gì, việc gì đó với ý nghĩa hài lòng. Còn thưởng là tặng cho bằng hiện vật hoặc tiền… Khen thưởng là hình thức ghi nhận công lao, thành tích của Nhà nước bằng quyết định của cơ quan có thẩm quyền do luật định. Như vậy, khen thưởng là một vấn đề thuộc phạm trù khoa học xã hội. Khen thưởng và trừng phạt được hình thành phát sinh và tồn tại trong quá trình phát triển của con người là vấn đề thuộc tâm lý xã hội, sinh hoạt tinh thần của con người, do đó khen thưởng phải thể hiện quan điểm quần chúng, phải có trách nhiệm cao trong quá trình phát hiện xét khen thưởng. Khen thưởng tồn tại cùng với sự tồn tại của Nhà nước. Còn Nhà nước là còn khen thưởng. Khen thưởng vừa có ý nghĩa động viên về tinh thần và khích lệ bằng vật chất.
Trong điều kiện hiện nay, khen thưởng vẫn có vai trò quan trọng là động lực thúc đẩy xã hội phát triển là biện pháp của người quản lý thực hiện nhiệm vụ trọng tâm chính trị của cơ quan đơn vị mình nhằm khuyến khích động viên mọi tầng lớp trong xã hội tích cực hăng hái lập thành tích trong lao động sản xuất và công tác.
Trên cơ sở lý luận đó Luật Thi đua, khen thưởng của Nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày 26/11/2003 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng ngày 16/11/2013, quy định: “Khen thưởng là việc nghi nhận, biểu dương, tôn vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
1.2.1.Nguyên tắc khen thưởng
Trước hết, khen phải đảm bảo tính chính xác, công bằng, công khai và kịp thời. Xuất phát từ khái niệm và mục đích khen thưởng là sự ghi nhận, biểu dương và tôn vinh công lao thành tích nhằm giáo dục, động viên thúc đẩy phong trào thi đua, khơi dậy tư duy tìm tòi, sáng tạo, phát huy trí tuệ, năng lực, tính tích cực của mỗi cá nhân và tập thể. Khen thưởng phải chính xác, đúng đối tượng, đúng hình thức, đúng thành tích. Thực hiện công khai trong bình xét, khen thưởng và đề nghị cấp trên khen thưởng; công khai trong việc trao tặng, tuyên truyền các tập thể, cá nhân được khen thưởng. Khen thưởng phải công bằng, không phân biệt dân tộc, tôn giáo, lứa tuổi, … Và nguyên tắc quan trọng là khen thưởng phải kịp thời, đảm bảo thời gian mới có ý nghĩa, tác dụng. Chính vì lẽ đó, khen thưởng phải chính xác, công khai, công bằng và kịp thời mới có tác dụng động viên, giáo dục, nêu gương trong quần chúng.
Cần chú ý những tập thể và cá nhân có những thành tích cụ thể, ai cũng nhận thấy, dễ học tập, phổ biến, không nên khen chung chung; chống phô trương, hình thức và báo cáo thiếu trung thực. Nếu khen thưởng không chính xác, công bằng và kịp thời, người có thành tích mà không được khen thưởng hoặc không được khen thưởng xứng đáng, sẽ làm mất tác dụng và ý nghĩa của công tác này đồng thời còn làm cho phong trào thi đua không đạt được mục tiêu đề ra và mất niềm tin trong quần chúng nhân dân. Khen thưởng phải chính xác, công bằng và kịp thời mới động viên thu hút được nhiều người tham gia.
Khen thưởng phải đảm bảo tính thống nhất giữa tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng. Tính chất trong khen thưởng phải thể hiện được những quy định về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với công tác khen thưởng. Tính chất, hình thức và đối tượng khen thưởng phải có liên quan chặt chẽ với nhau. Tính chất ở đây là tính chất công việc hoặc lĩnh vực công tác của từng tập thể, cá nhân. Hình thức khen thưởng phải phản ánh đúng thành tích đạt được trong từng lĩnh vực công tác cụ thể. Đối tượng khen thưởng cũng phải phản ánh đúng hình thức và thành tích.
Khen thưởng phải kết hợp chặt chẽ giữa động viên tinh thần đi đôi với thưởng về vật chất. Khen đi đôi với thưởng thỏa đánh cũng là một yêu cầu không thể thiếu được trong tình hình hiện nay vì “trăm đồng tiền công cũng không bằng một đồng tiền thưởng”; để động viên tinh thần những cá nhân và tập thể có những thành tích xuất sắc đóng góp cho thực hiện các nhiệm vụ chính trị của địa phương, cơ quan, đơn vị. Hình thức khen cao phải được thưởng vật chất cao hơn. Tuy khuyến khích vật chất là một động lực song không nên nhấn mạnh quá đến yếu tố vật chất. Khen thưởng vẫn phải mang ý nghĩa tinh thần, động viên là chủ yếu; cần quan tâm hơn trong việc sử dụng các đòn bẩy về chế độ chính sách kèm theo như những người được khen thưởng với thành tích xuất sắc sẽ được quan tâm cho đi đào tạo, bồi dưỡng, nâng lương, đề bạt … để tạo ra sức hút, động lực của phong trào thi đua.
1.2.2.Hình thức khen thưởng
Nhà nước ta có nhiều hình thức khen thưởng để ghi nhận công lao, thành tích của các tập thể, cá nhân từ Trung ương đến địa phương và tập thể, cá nhân nước ngoài. Theo quy định tại Điều 8, Luật Thi đua, khen thưởng có
7 hình thức khen thưởng chủ yếu, gồm:
–Huân chương
–Huy chương
–Danh hiệu vinh dự Nhà nước
–“Giải thưởng Hồ Chí Minh”, “Giải thưởng Nhà nước”
–Kỷ niệm chương, Huy hiệu
–Bằng khen
–Giấy khen
Tương ứng với 07 hình thức khen thưởng trên có 29 loại khác nhau, gồm: 10 loại Huân chương; 04 loại Huy chương; 08 loại danh hiệu vinh dự Nhà nước; 02 loại giải thưởng; 01 loại kỷ niệm chương; 01 loại huy hiệu; 02 loại Bằng khen và 01 loại giấy khen.
1.2.3.Các loại hình khen thưởng
Khen thưởng theo công trạng và thành tích đạt được là hình thức khen thưởng cho tập thể, cá nhân đạt được thành tích xuất sắc trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Khen thưởng theo chuyên đề (hoặc theo đợt) là khen thưởng cho tập thể, cá nhân đạt được thành tích xuất sắc sau khi kết thúc đợt thi đua do Chủ tịch nước, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các cấp, Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức, đơn vị phát động.
Khen thưởng đột xuất là khen thưởng cho tập thể, cá nhân đạt được thành tích đột xuất trong lao động, sản xuất, chiến đấu, phục vụ chiến đấu; dũng cảm cứu người, tài sản của nhân dân hoặc của Nhà nước (thành tích đột xuất là thành tích lập được trong hoàn cảnh không được dự báo trước, diễn ra ngoài dự kiến kế hoạch công việc bình thường mà tập thể, cá nhân phải đảm nhận).
Khen thưởng quá trình cống hiến là khen thưởng cho cá nhân có quá trình tham gia trong các giai đoạn cách mạng (giữ các chức vụ lãnh đạo, quản lý trong các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội), có công lao, thành tích xuất sắc đóng góp vào sự nghiệp cách mạng của Đảng và của dân tộc.
Khen thưởng theo niên hạn là khen thưởng cho cá nhân thuộc lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân có thành tích, có thời gian tham gia xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Khen thưởng đối ngoại là khen thưởng cho tập thể, cá nhân người nước ngoài đã có thành tích, có đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam trên lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội, an ninh, quốc phòng, ngoại giao, hoặc lĩnh vực khác.
1.3. Mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch” [4, tr.14], việc lấy hình ảnh gieo trồng, khen thưởng và thu hoạch tại thời điểm đó là một sự vận dụng vô cùng sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi nói về thi đua yêu nước. Trên thực tế, trải qua 02 cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc, từ những phong trào thi đua trên tất cả các ngành nghề, lĩnh vực xuất hiện bao nhiêu điển hình tiên tiến, những anh hùng trong lao động và sản xuất, hăng hái thi đua lập nhiều thành tích trong chiến đấu giết giặc ngoại xâm.
Khi đất nước đã vững vàng hơn, dân trí được nâng cao hơn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ thi đua và khen thưởng là công tác động viên chính trị, giáo dục tư tưởng, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đều là động lực phát triển xã hội theo hướng tốt đẹp hơn. Nếu thi đua là hành động cách mạng, tự nguyện, tự giác của quần chúng nhân dân có tổ chức của Nhà nước gắn liền với truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc thì khen thưởng lại là chức năng quản lý của Nhà nước, là ghi nhận, biểu dương, khuyến khích, tôn vinh công trạng của nhân dân.
Thi đua và khen thưởng quan hệ chặt chẽ, tác động biện chứng lẫn nhau. Là hai thành tố hữu cơ của một quá trình dẫn đến một hiệu quả chung. Mối quan hệ đó biểu hiện:
Thi đua là động lực thúc đẩy cá nhân và cộng đồng hoàn thành nhiệm vụ trên cơ sở đó thực hiện khen thưởng, thực tế cho thấy:
Ở Ởđâu phong trào thi đua thực sự là động lực thì ở đó xã hội phát triển quần chúng phấn khởi và khen thưởng chuẩn xác, ngược lại ở đâu phong trào thi đua yếu, hoặc không có phong trào thi đua ở đó xã hội trì trệ công tác khen thưởng không chuẩn xác, quần chúng kém phấn khởi, thậm chí có những tiêu cực.
Khen thưởng vừa là kết quả, vừa là yếu tố thúc đẩy phong trào thi đua phát triển, thực tế cho thấy:
Ở đâu làm tốt công tác khen thưởng, công tác này được đánh giá khách quan, công minh trên cơ sở phong trào thi đua thì ở đó quần chúng phấn khởi, có được phong trào thi đua mới, tốt hơn và ngược lại.
Bác Hồ coi thi đua là đoàn kết, là cải tạo con người. Theo Bác thi đua phải toàn dân toàn diện, thường xuyên . Đặc biệt bác nhấn mạnh Thi đua phải gắn với khen thưởng một cách đích đáng; khen thưởng phải có tác dụng động viên, giáo dục nêu gương; Bác khái quát bản chất của mối quan hệ giữa thi đua và khen thưởng là: “thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Như vậy có tổ chức tốt phong trào thi đua thì kết quả khen thưởng mới chính xác, mới có tác dụng giáo dục, nêu gương, động viên khuyến khích, hơn nữa còn tạo điều kiện cho đợt thi đua sau đạt kết quả cao hơn. Do vậy, không coi nhẹ khen thưởng trong thi đua, ngược lại không có thi đua thì không có căn cứ đánh giá thành tích để khen thưởng, thiếu chính xác, ít tác dụng.
Xét cả hai phương diện lý luận và thực tiễn cho thấy thi đua, khen thưởng luôn bổ sung hỗ trợ cho nhau. Thi đua là động lực thúc đẩy mọi tầng lớp nhân dân phát huy tinh thần sáng tạo, nỗ lực vượt mọi khó khăn vươn lên hoàn thành các mục tiêu kinh tế – xã hội đề ra. Từ kết quả tổng kết thi đua mà lựa chọn tập thể và cá nhân xứng đáng để khen thưởng. Khen thưởng chính là việc đánh giá kết quả phong trào thi đua. Khen thưởng chính xác kịp thời có tác dụng động viên, giáo dục và nêu gương tốt trong xã hội, đồng thời cổ vũ phong trào thi đua phát triển sâu, rộng. Nếu khen thưởng không đúng không chuẩn xác sẽ làm mất tác dụng thậm chí còn ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua và dẫn đến tiêu cực trong phong trào thi đua, ảnh hưởng đến công tác khen thưởng.
Tuy nhiên, trong thực tế có những hình thức khen thưởng không phản ánh kết quả trực tiếp từ phong trào thi đua như: Khen thưởng tổng kết thành tích kháng chiến, khen thưởng người có quá trình cống hiến lâu dài trong cơ quan, tổ chức, đoàn thể… ; khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức trong nước và ngoài nước có công lao, đóng góp cho xã hội, cho Việt Nam trong quá trình hội nhập, phát triển kinh tế, những cá nhân dũng cảm cứu người, tài sản của nhà nước của tập thể, của công dân… song việc khen thưởng này cũng có quan hệ nhất định đối với thi đua, nó cũng bị ảnh hưởng nhất định từ phong trào thi đua, từ truyền thống thi đua yêu nước của dân tộc.
2. Nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng
Việc nhận thức đúng và thực hiện đầy đủ nội dung quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đổi mới quản lý nhà nước công tác thi đua, khen thưởng ở địa phương. Do vậy luận văn tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu quản lý nhà nước đã được nêu trong Luật Thi đua, khen thưởng như sau:
2.1. Ban hành các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng
Văn bản pháp luật là công cụ quan trọng nhất để nhà nước quản lý xã hội nói chung và quản lý công tác thi đua, khen thưởng nói riêng. Nhà nước quản lý công tác thi đua, khen thưởng bằng pháp luật. Các văn bản quy phạm pháp luật của nhà nước là sự thể hiện, cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng về công tác thi đua, khen thưởng, đồng thời cũng là sự tập trung nguyện vọng của quần chúng nhân dân trong lao động, sản xuất, công tác, học tập đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Văn bản pháp luật tạo ra hành lang pháp lý để các tổ chức, các tầng lớp nhân dân và các cá nhân phát huy lòng nhiệt tình hăng hái tham gia thi đua và đón nhận những kết quả, phần thưởng xứng đáng; hành lang đó tạo ra sự thống nhất công tác thi đua, khen thưởng ở các ngành, các cấp trong cả nước.
Thực tế đã chứng minh, ngay từ khi Nhà nước ta mới ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, để huy động sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân nhà nước đã ban hành các văn bản pháp lý về thi đua, khen thưởng như: Ngày 20/01/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng với lời mở đầu: “Trong một nước, thưởng phạt phải nghiêm minh thì nhân dân mới yên ổn, kháng chiến mới thắng lợi, kiến quốc mới thành công” [26, tr.163]. Quốc lệnh là văn bản pháp lý đầu tiên về điều kiện về khen thưởng, đặt nền móng hình thành chính sách khen thưởng; Văn bản này đã góp phần quan trọng trong phong trào thi đua yêu nước phát triển, làm nên chiến thắng thần thánh Điện Biên Phủ, miền Bắc được hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1945 – 1998, nhà nước ta đã ban hành 1 quốc lệnh, 15 sắc lệnh, 6 quyết nghị, 5 pháp lệnh và nhiều nghị định, thông tư, chỉ thị để tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng. Suốt chiều dài hơn 60 năm xây dựng đất nước công tác thi đua, khen thưởng đã bám sát được chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, kịp thời đề ra những phương pháp tổ chức thực hiện phù hợp với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng; đã khơi dậy và phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí quật cường, tinh thần hy sinh cao cả, chủ nghĩa Anh hùng cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp phần bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, giải phóng miền Nam, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Sau một thời gian dài công tác thi đua, khen thưởng “bị buông lỏng”. Ngày 03/6/1998 Bộ chính trị đã ban hành Chỉ thị số 35 về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới. Ngày 21/5/2004 Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị số 39 về tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, phát hiện, bồi dưỡng, tổng kết và nhân rộng điển hình tiên tiến.
Luật Thi đua khen thưởng ra đời cùng các văn bản pháp quy của nhà nước như Nghị định số 121/2005/NĐ-CP ngày 30/9/2005 của Chính phủ qui định chi tiết và hướng dẫn một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, Nghị định số 122/2005/NĐ-CP ngày 04/10/2005 của Chính phủ quy định tổ chức làm công tác thi đua, khen thưởng đã từng bước thực hiện đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, đưa công tác này vào nề nếp đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
Trên cơ sở quy định của Luật Thi đua, khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật, các địa phương, đơn vị đã đề ra những quy định cụ thể về công tác khen thưởng của địa phương, đơn vị mình theo chức năng nhiệm vụ và điều kiện thực tế cho phép để từng bước đưa Luật Thi đua, khen thưởng vào cuộc sống, góp phần đẩy mạnh công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc mà ở đó thi đua, khen thưởng là biện pháp đòn bẩy được áp dụng thống nhất trong phạm vi cả nước.
2.2. Xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng
Việc xây dựng chính sách đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Ngay sau khi giành được chính quyền Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Quốc lệnh ban hành 10 điều thưởng ngày 26 tháng 01 năm 1946. Điều này chứng minh rằng chính sách trong thi đua, khen thưởng được xác định rất quan trọng để động viên, khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội thi đua lao động, sản xuất và sáng tạo để phát huy sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Luật Thi đua, khen thưởng, các văn bản quy phạm pháp luật, thông tư hướng dẫn thi hành luật đề cập một cách toàn diện các mặt của công tác thi đua, khen thưởng, đây là chủ trương chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Cuộc sống phát triển rất sinh động phong phú, phong trào thi đua, khen thưởng cũng không ngừng phát triển phong phú đa dạng nhất là ở các ngành, các địa phương cho đến cơ sở. Do vậy vấn đề đặt ra trong quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng là xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng, chính sách này phải đáp ứng kịp thời sự phát triển cuộc sống xã hội thậm chí của mỗi ngành, mỗi cấp đặc biệt của địa phương và cơ sở.
Trong thời kỳ kháng chiến, đất nước còn nghèo và còn nhiều khó khăn, các danh hiệu thi đua, hình thức khen thưởng chỉ nhằm động viên tinh thần là chủ yếu; đến nay, nền kinh tế đang phát triển, nhất là với cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng và nhà nước ta rất quan tâm đến quyền lợi và chế độ đối với người lao động nói chung và đối với những cá nhân, tập thể có thành tích cống hiến được khen thưởng nói riêng. Do vậy khi xây dựng chính sách về thi đua, khen thưởng phải chú trọng đến chế độ khen thưởng nhằm khuyến khích, động viên những cá nhân, tập thể hăng hái trong phong trào thi đua yêu nước.
Châm ngôn xưa đã được nhân dân ta đúc kết “Trăm đồng tiền công, không bằng một đồng tiền thưởng”. Nó thể hiện sự trân trọng giá trị vật chất và tinh thần, đảm bảo giá trị kết quả thi đua, đó là giá trị của khen thưởng. Hiện nay trong cơ chế thị trường thì giá trị vật chất lại càng thể hiện được nguyên tắc “vật chất quyết định ý thức” có nghĩa là khen thưởng có tác dụng trở lại thi đua.
Thực tiễn cho ta thấy rõ tác dụng to lớn của chính sách trong công tác thi đua, khen thưởng khi kết hợp giữa động viên tinh thần, gắn với quyền lợi vật chất, có chính sách đãi ngộ thỏa đáng trong khen thưởng sẽ là động lực cho thi đua, động lực phát triển kinh tế – xã hội, là động lực để vượt qua những khó khăn, thử thách.
Những vấn đề trên là cơ sở lý luận và thực tiễn sinh động giúp chúng ta có cách nhìn mới về công tác thi đua, khen thưởng và cũng chính là cơ sở để đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế.
2.3. Tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về thi đua, khen thưởng
Điều 12 và Điều 13 Luật Thi đua khen hưởng có nêu: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm: tuyên truyền, động viên các thành viên của mình tham gia với các cơ quan chức năng tuyên truyền, động viên nhân dân thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng; Tổ chức hoặc phối hợp với cơ quan nhà nước tổ chức các cuộc vận động, các phong trào thi đua; Giám sát việc thực hiện pháp luật về thi đua, khen thưởng. Các cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên tuyên truyền, phổ biến, nêu gương các điển hình tiên tiến, người tốt việc tốt, cổ động phong trào thi đua, khen thưởng”[29].
Như vậy, theo quy định của Luật Thi đua, khen thưởng Mặt trận Tổ quốc và các thành viên có trách nhiệm tuyên truyền, phổ biến, giám sát; tổ chức nhà nước có trách nhiệm tổ chức và phối hợp tuyên truyền, phổ biến, giám sát; cơ quan thông tin đại chúng có trách nhiệm thường xuyên trong công tác tuyên truyền cho thi đua và các gương điển hình.
Đây là nhiệm vụ của các cấp, các ngành, các địa phương đơn vị khi tiến hành công tác thi đua, khen thưởng phải thực hiện. Tuy nhiên, ở mỗi ngành, mỗi cấp tổ chức thực hiện nhiệm vụ này có những yêu cầu, đối tượng, nội dung cụ thể khác nhau.
Trong công tác thi đua, khen thưởng tuyên truyền phổ biến, hướng dẫn và tổ chức thực hiện thi đua, khen thưởng là một khâu rất quan trọng vì thế trong Luật Thi đua, khen thưởng cũng quy định rõ và đó là một vấn đề mà nhà nước cần phải quản lý.
Đối với cấp Trung ương, nhà nước có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn để các ngành, các địa phương quán triệt mục đích, yêu cầu, nội dung của các quy định pháp luật đồng thời có sự hướng dẫn các ngành, các địa phương tổ chức thực hiện các quy định pháp luật. Trên cơ sở đó, các ngành, các cấp trong cả nước thống nhất nhận thức và hành động.
Đối với địa phương gồm các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, sau khi được quán triệt và hướng dẫn tổ chức thực hiện, chính quyền cấp tỉnh vận dụng vào đặc điểm cụ thể của địa phương từ đó có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến hướng dẫn và tổ chức thực hiện các quy định pháp luật đối với cấp huyện và các Ban ngành, đoàn thể ở địa phương.
Đối với cấp huyện cũng tương tự như vậy. Một khi toàn bộ các cấp, các ngành thực hiện nhiệm vụ này sẽ tạo ra được sự thống nhất nhận thức, hành động trong cả nước từ Trung ương đến cơ sở đối với các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng.
Nội dung này, vấn đề hướng dẫn và tổ chức thực hiện có ý nghĩa rất đặc biệt, vì có tổ chức thực hiện luật, các văn bản quy định của pháp luật mới trở thành hiện thực trong cuộc sống, nhà nước mới thực sự quản lý được công tác thi đua, khen thưởng. Từ đó công tác thi đua, khen thưởng tạo sự quản lý thống nhất từ Trung ương đến cơ sở. Mới trở thành động lực phát triển kinh tế xã hội.
2.4. Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen thưởng
Nhà nước, các cấp chính quyền ở địa phương muốn quản lý tốt công tác thi đua khen thưởng trước hết phải có bộ máy thống nhất, có đội ngũ cán bộ đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác thi đua, khen thưởng.
Muốn có đội ngũ cán bộ tốt thì phải đào tạo bồi dưỡng để nâng cao chất lượng cán bộ cả về phẩm chất lẫn chuyên môn nghiệp vụ.
Bồi dưỡng về chính trị là để nâng cao sự hiểu biết, về đường lối chính sách của Đảng và nhà nước về quan điểm chỉ đạo phong trào thi đua, tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua, khen thưởng, trên cơ sở đó nâng cao về năng lực tổ chức phong trào thi đua yêu nước và có phẩm chất đạo đức trung thực khách quan để làm tốt công tác.
Bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ nhất là đối với cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng ở cơ sở là rất cần thiết. Nếu cán bộ ở cơ sở không thông thạo về chuyên môn nghiệp vụ thì không thể tham mưu đề xuất với cấp uỷ, chính quyền về tổ chức phong trào thi đua thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế, xã hội, an ninh quốc phòng ở địa phương, và đề xuất xét duyệt những hình thức khen thưởng được chính xác, kịp thời …..
Đối với cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng cũng phải tiêu chuẩn hoá, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên, phải có kiến thức xã hội, am hiểu lịch sử và có nhận thức tốt tiếp cận thông tin mới, nhanh nhậy nắm bắt chủ trương chính sách mới của Đảng và nhà nước thì mới đáp ứng được yêu cầu về tham mưu cho cấp uỷ Đảng, chính quyền các cấp về các chủ trương giải pháp trong chỉ đạo và tổ chức phong trào thi đua.
Nhà nước muốn quản lý tốt công tác thi đua, khen thưởng trước hết phải có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, phẩm chất để làm công tác này. Do vậy nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng là cấp thiết nhất là trong hoàn cảnh hiện nay khi mà luật mới ra đời mặt bằng cán bộ còn yếu và thiếu.
2.5. Sơ kết, tổng kết, tặng thưởng các hình thức khen thưởng đánh giá hiệu quả công tác thi đua
Mục đích, yêu cầu của sơ kết, tổng kết là nhằm đánh giá được kết quả của công tác thi đua, khen thưởng những mặt đã làm được và những mặt chưa làm được. Chỉ rõ những ưu, khuyết điểm và nguyên nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng và chính quyền, đoàn thể, đơn vị đối với công tác thi đua, khen thưởng.
Từ thực tế tổ chức phong trào thi đua, và công tác khen thưởng trong từng đợt thi đua, hay hàng năm, hoặc từng giai đoạn qua sơ kết, tổng kết rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn tiếp theo góp phần phát triển kinh tế xã hội, an ninh quốc phòng của địa phương, của đất nước.
Nội dung tổng kết phải đánh giá được công tác lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, đoàn thể trong việc tổ chức các phong trào thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội.
Đánh giá về nhận thức vai trò, tầm quan trọng của thi đua, khen thưởng trong công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước. Tổng kết rút ra được những bài học kinh nghiệm, các hình thức, nội dung, phương pháp để tổ chức phong trào thi đua có hiệu quả; về kinh nghiệm xây dựng điển hình tiên tiến, rà soát các hình thức, nội dung, đối tượng, tiêu chuẩn khen thưởng, những vấn đề cần bổ sung, sửa đổi, vận dụng vào đặc điểm của từng ngành, từng địa phương cho phù hợp. Trên cơ sở đó đề xuất công tác chỉ đạo, quản lý và các qui trình, thủ tục xét duyệt khen thưởng, tổng kết theo dõi và chấm điểm thi đua để có các hình thức tặng thưởng xứng đáng, chính xác, kịp thời.
Trong tình hình thực tế bệnh quan liêu, hình thức còn đang nặng nề trong các địa phương, đơn vị thì việc tổng kết, sơ kết càng phải đặt ra với chất lượng cao hơn để tránh hình thức, phô trương, tốn kém mà không hiệu quả.
Trên đây là những nội dung chủ yếu của quản lý nhà nước về công tác Thi đua, khen thưởng. Những nội dung này quan hệ chặt chẽ với nhau, phải được tiến hành đồng thời, không thể coi nhẹ nội dung nào.
2.6. Hợp tác quốc tế về thi đua, khen thưởng
Đất nước đổi mới, mở cửa, hội nhập tạo điều kiện cho các lĩnh vực công tác giao lưu, học hỏi, tiếp nhận sự hỗ trợ của các cá nhân, tổ chức nước ngoài. Do vậy, đây là nội dung nhà nước cần quản lý đối với công tác thi đua, khen thưởng gồm:
Trao đổi học tập kinh nghiệm quản lý của các nước bạn về khen thưởng và về các chính sách khuyến khích người dân tham gia vào công việc của xã hội.
Giới thiệu hình thức thi đua, khen thưởng của Việt Nam với các nước bạn.
Theo dõi phát hiện những cá nhân, tổ chức nước ngoài có đóng góp đối với Việt Nam trong các ngành, lĩnh vực và các địa phương.
Đề xuất những hình thức khen thưởng đối với những cá nhân tổ chức nước ngoài đã có những đóng góp hiệu quả trong việc giúp Việt Nam xây dựng, phát triển kinh tế hoặc giúp các ngành, các địa phương giải quyết được những vấn đề cần ghi công và khen thưởng.
Với điều kiện nước ta hiện nay nội dung này càng cần được quan tâm hơn cùng với sự phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, kêu gọi sự hợp tác đầu tư của các cá nhân, tổ chức nước ngoài.
2.7. Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng
Nội dung thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm việc thực hiện các quy định pháp luật về thi đua, khen thưởng được quy định tại Điều 96 Luật Thi đua, khen thưởng. Có nội dung này vì quản lý nhà nước ở bất kỳ lĩnh vực nào, ngành nào cũng đều phải có thanh tra, kiểm tra, nếu không thanh tra, kiểm tra sẽ bị buông lỏng công tác quản lý nhà nước.
Trong thực tế, không phải đơn vị, địa phương, cá nhân nào cũng thực hiện tốt, đầy đủ những quy định của Luật Thi đua Khen thưởng và các văn bản hướng dẫn thi hành luật.
Công tác thanh tra, kiểm tra được tiến hành trong những nội dung: Việc thực hiện Luật Thi đua khen thưởng, các băn bản hướng dẫn thi hành luật, các quy định, chính sách của nhà nước về thi đua, khen thưởng không đúng tiêu chuẩn, không đúng đối tượng v.v…
Công tác thanh tra, kiểm tra theo định kỳ hàng quý, hàng năm hoặc theo đợt phát động phong trào thi đua, kết thúc phong trào thi đua, hoặc thanh tra đột xuất khi thấy có vấn đề về công tác thi đua, khen thưởng.
Thanh tra khi có khiếu nại, vì vậy công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo, xử lý vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng cũng phải được quan tâm giải quyết.
Trong tiến trình xét thi đua, khen thưởng không phải không còn những hiện tượng không khách quan, cảm tình, nể nang, chủ quan có những động cơ không trong sáng. Một số cá nhân, đơn vị lợi dụng những sai sót trong phương pháp, tinh thần trách nhiệm của người thực hiện nhiệm vụ, các cá nhân, tập thể khai man thành tích để được khen thưởng …
Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến có đơn thư khiếu nại của quần chúng nhân dân về khen sai, khen không đúng tiêu chuẩn, tố giác những người khai man thành tích, thực hiện không đúng chính sách về khen thưởng của Đảng và nhà nước. Vì vậy, cơ quan quản lý phải giải quyết để thực hiện tốt Luật Khiếu nại, tố cáo đảm bảo quyền lợi, chính sách trong thi đua, khen thưởng.
Sau khi thanh tra kiểm tra phải có đánh giá, kết luận ở từng đơn vị từng ngành, từng cấp trong việc thực hiện chính sách khen thưởng. Công tác quản lý nhà nước trong việc thanh tra, kiểm tra giải quyết các khiếu nại tố cáo và đặc biệt là xử lý những vi phạm pháp luật về thi đua, khen thưởng phải được quan tâm thường xuyên để Luật Thi đua, khen thưởng thực sự đi vào cuộc sống, đảm bảo được nguyên tắc của thi đua là tự nguyện, tự giác, nguyên tắc của khen thưởng là chính xác, công khai, công bằng và kịp thời. Có được như vậy thi đua, khen thưởng mới thực sự là động lực cho mỗi cá nhân, tập thể trong lao động, sản xuất, công tác, học tập tốt hơn và mới có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của địa phương cũng như của đất nước.
3. Vai trò của quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen thưởng
Thứ nhất, thi đua, khen thưởng là lĩnh vực hoạt động của xã hội cần có sự quản lý của nhà nước bởi vì: Thi đua, khen thưởng là một lĩnh vực hoạt động rộng lớn của hàng triệu hàng triệu quần chúng nhân dân thông qua phong trào thi đua; huy động các tổ chức trong hệ thống chính trị tham gia các phong trào thông qua đó phát huy được nội lực của mỗi người, mỗi đơn vị, địa phương trong cả nước góp phần thúc đẩy kinh tế – xã hội phát triển.
Thứ hai, thi đua là hoạt động rộng khắp ở tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội các ngành, các cấp, rất đa dạng, phong phú, đồng thời mục tiêu, hình thức, biện pháp thi đua thường xuyên cần thay đổi để phù hợp với sự phát triển kinh tế – xã hội.
Thứ ba, kết quả thi đua cần có sự đánh giá đúng, khách quan, có thưởng phạt kịp thời, rõ ràng để động viên khuyến khích mọi tầng lớp trong xã hội tham gia vào phong trào thi đua.
Thứ tư, lịch sử cho thấy các nhà nước trước đây trên thế giới cũng như
Ở Việt Nam đều thực hiện vai trò thưởng phạt, đó là ban thưởng những người có công và trách phạt những người có tội.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng, sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động thi đua, khen thưởng thì mới có được sự thống nhất, tạo được sức mạnh để thi đua trở thành động lực thúc đẩy xã hội phát triển. Như vậy, công tác thi đua, khen thưởng đã có đóng góp không nhỏ vào sự phát triển của nhà nước, do vậy nhà nước phải quản lý công tác này.
Chỉ thị số 35/CT-TW ngày 03/5/1998 của Bộ chính trị về đổi mới công tác thi đua, khen thưởng trong giai đoạn mới đã chỉ rõ: “Làm rõ vị trí, vai trò quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn cách mạng mới, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý nhà nước đối với công tác thi đua, khen thưởng; kiện toàn và đổi mới tổ chức – cán bộ của cơ quan tham mưu thi đua, khen thưởng, đổi mới nội dung và hình thức thi đua, khen thưởng…”.