Chuyển tới nội dung
Home » Cơ sở lý luận về chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công

Cơ sở lý luận về chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công

  • bởi
Cơ sở lý luận về chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công

Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển

Cơ sở lý luận về chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công

Cơ sở lý luận về chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công

1. Chính sách công và quy trình hoạch định chính sách công

1.1. Chính sách công

Là thuật ngữ ra đời khá muộn, gắn liền với sự thay đổi của bối cảnh chính trị thế giới. Khoa học chính sách công có cách tiếp cận bắt đầu từ các thể chế, cơ cấu tổ chức nhà nước, thái độ và hành vi ứng xử của tổ chức và cá nhân (khác với triết học chính trị), xem đó là những nhân tố chủ yếu khi nghiên cứu sự tác động của chính trị (chính sách) tới đời sống kinh tế – xã hội. Từ đó đã ra đời hàng loạt cách tiếp cận mới, đặt cơ sở nền tảng thúc đẩy nghiên cứu chính sách công. Các nghiên cứu tập trung vào những hành vi ứng xử của các nhà lãnh đạo, khía cạnh tâm lý của quần chúng, nhà lãnh đạo cũng như các cử tri, khía cạnh bản chất dân tộc và tính toàn cầu,..trong đời sống chính trị – xã hội. Trong đó, đặc biệt dành trọng tâm nghiên cứu cơ sở khoa học của quy trình ban hành các chính sách công.
Thực tế, từ đầu thế kỷ XX trở lại đây, chính sách của nhà nước có ảnh hưởng vô cùng lớn đến sự phát triển kinh tế – xã hội ở tất cả các quốc gia. Đối với các nước XHCN, Đảng Cộng sản cầm quyền, chính sách là công cụ chủ yếu và trực tiếp để nhà nước điều hành các mối quan hệ trong nền kinh tế như: quan hệ lợi ích giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội, giữa nhà nước với nhân dân,… Trong quan hệ quốc tế, vấn đề chính sách cũng luôn thu hút sự chú ý của các đối tác. Do vậy, đã có những cuộc điều tra nghiên cứu đo được mức độ quan ngại của các nhà doanh nghiệp thuộc các quốc gia khác nhau trên thế giới về những thay đổi đột ngột của chính sách vĩ mô ở các quốc gia khác. Kết quả điều tra của W.B cho thấy hiện nay hầu hết trong số họ sống trong mối lo không dứt về sự thay đổi không đoán trước được của chính sách bản địa sẽ kéo theo sự đổ vỡ trong kinh doanh, làm giảm sút đầu tư, hạn chế tăng trưởng và giảm lợi nhuận của các dự án phát triển.
Tại Việt Nam, trong quá trình đổi mới, các nghiên cứu chính sách công có vai trò hữu ích, quan trọng trong việc định hướng chiến lược, xác định các vấn đề, thu thập thông tin và xây dựng luận cứ khoa học để hỗ trợ quá trình hoạch định chính sách. Nhu cầu về nghiên cứu chính sách công vì thế ngày càng quan trọng. Các chính sách cũng trở nên phức tạp hơn do mở rộng đối tượng tác động, mang tính liên ngành, liên vùng, yêu cầu cao về khả năng dự báo, khả năng cạnh tranh. Nhận thức về tầm quan trọng, tính khoa học, lý luận của chính sách công vì thế là tiêu chí đầu tiên cần chú ý.
Thực tế cũng cho thấy dù có chủ trương đường lối đúng nhưng việc cụ thể hóa bằng chính sách mắc phải hạn chế hoặc chính sách không hiệu quả có khi gây tác hại không kém chủ trương đường lối sai lầm. Từ đó cho thấy trong bối cảnh hịên nay cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu về kinh tế – xã hội, chính trị, môi trường mang tính khoa học làm căn cứ cho quá trình xây dựng chính sách, chiến lược. Hơn nữa điều đó phù hợp với xu thế phân quyền, trao quyền cho chính quyền địa phương, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, từng người dân để họ đồng thời tham gia vào thị trường. Do đó, các chính sách phải tính đến tác động, phản ứng của nhiều đối tượng khác nhau trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Cần nhận thức đúng tầm quan trọng của sự phối hợp lực lượng nghiên cứu của các Viện, trường, tổ chức phi chính phủ, đoàn thể quần chúng, các tổ chức quốc tế với các Viện nghiên cứu chiến lược và chính sách trong hoạt động nghiên cứu nhằm tham mưu tư vấn cho Chính phủ trong việc hoạch định, ban hành. Cho nên khoa học về chính sách công đang là tâm điểm thu hút sự chú ý của giới nghiên cứu chính trị đương đại trên thế giới cũng như ở Việt Nam.
Về mặt định nghĩa, chính sách công là vấn đề luôn gây nhiều tranh cãi. Bản thân chính sách công liên quan đến hầu hết mọi người nên càng có rất nhiều cách hiểu về nó xuất phát từ ý đồ tiếp cận chính sách công của người nghiên cứu. Theo kết quả nghiên cứu, được trình bày trong tài liệu về Khoa học chính sách công của Viện Chính trị học thuộc Học viện CTQG Hồ Chí Minh sắp được hoàn tất và phát hành, hiện đang có sự phân loại định nghĩa chính sách công theo các nhóm như:
Với tư cách như là sản phẩm có mục đích của nhà nước, chính sách công được xem là “tất cả những gì nhà nước lựa chọn làm hoặc không làm” (Thomas Dye). Hoặc ở góc độ cụ thể song có xu hướng khái quát, có định nghĩa như sau: “ Chính sách công là toàn bộ các hoạt động của nhà nước, đều có ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp đến cuộc sống của mọi công dân” (B.Guy Peters). Hay chính sách công được khẳng định với tư cách một quá trình hành động, một cách ứng xử của chủ thể trước thực tại khách quan: “Chính sách là một quá trình hành động có mục đích được theo đuổi bởi một hoặc nhiều chủ thể trong việc giải quyết các vấn đề mà họ quan tâm” (J.Anderson). Dù diễn đạt khác đi song tinh thần chung của các định nghĩa vẫn xoay quanh hai đặc điểm quan trọng của chính sách công là: tính hành động và tính mục đích ở cấp độ cộng đồng.
ở một số định nghĩa xem chính sách công như một tập hợp các bước giải quyết những vấn đề công cộng, chính sách công là một quá trình gồm năm giai đoạn: cảm nhận tình huống có vấn đề, xác định vấn đề, hình thành các giải pháp, xem xét các khía cạnh của các giải pháp, chọn một giải pháp rồi thực hiện (John Dewey). Hay: Chính sách công là một quá trình ra quyết định có tính sáng tạo bao gồm các bước: tranh luận, đưa ra các giải pháp, lựa chọn, áp dụng – thực thi và kết thúc như Harold Lasswell sau này đã định nghĩa.
Một cách định nghĩa khác dựa trên các khái niệm cơ bản (đầu vào, chuyển và xử lí thông tin, đầu ra) của lí thuyết hệ thống: “Chính sách công là những quyết định quan trọng nhất của xã hội, là những hành động có tính chức năng dựa trên sự đồng thuận hoặc phê chuẩn của toàn hệ thống, theo đó, chính sách công là một quá trình có tính hệ thống diễn ra theo sáu giai đoạn: khởi xướng, xem xét, lựa chọn, thực thi, đánh giá và kết thúc” (Garry Brewer và Peter deLeon).
Ngoài ra, mang khuynh hướng chính trị rõ rệt, mức độ khái quát cao hơn, chính sách công được cắt nghĩa như là một quá trình chính trị mà vấn đề then chốt là sự tự đấu tranh vượt lên khẳng định chân giá trị của các ý thức hệ, các tư tưởng của chủ thể. Với cái nhìn thiết thực của kinh tế học thì chính sách công không có gì khác hơn là sự can thiệp của nhà nước nhằm sửa chữa những khuyết tật của nền kinh tế thị trường (lãng phí nguồn lực, thiếu hiệu quả, độc quyền, bất bình đẳng, các vấn đề an sinh- xã hội, an ninh, môi trường, quốc phòng, quan hệ đối ngoại) mà tự nó thị trường không thể khắc phục. Đây chính là cơ sở lí luận cho phương pháp phân tích chính sách công xuất phát từ góc độ Chi phí – Lợi ích. Tiếp nối các tư tưởng kinh điển, Edward M. Gramlich năm 1981, cho rằng chính sách công là toàn bộ các chương trình của nhà nước (Phân bổ các nguồn lực xã hội, Phân phối và ổn định) nhằm hai mục tiêu căn bản: cung cấp hàng hoá công cộng và cải thiện sự bất bình đẳng.
Khác hoàn toàn với các cách định nghĩa chính sách công nói trên, hướng tiếp cận nghiên cứu chính sách công của lý thuyết Lựa chọn công cộng (Public Choice School) đã gây sự chú ý của giới khoa học chính trị trên thế giới và gần đây là ở các nước đang phát triển khi nó hoài nghi chính khả năng can thiệp của nhà nước, hoài nghi cả tính duy lí và công bằng của chính sách công. Điều các tác giả này quan tâm nhất không phải là định nghĩa mà là việc đưa ra các giải pháp cho các vấn đề chính sách. Vì thế nhận thức của họ về chính sách công rất khác. Họ cho rằng: “Trong tính thực tiễn của nó, chính sách công chỉ là sự phản ánh nghèo nàn tinh thần và lợi ích công cộng, vì nó đã bị khúc xạ và bóp méo bởi những lợi ích cá nhân và cục bộ của các nhóm có thẩm quyền và ảnh hưởng trong bộ máy hoạch định chính sách”. Họ đề cao giá trị thực tiễn (cái thực sự là) của chính sách công và không cố gắng định nghĩa nó là cái gì. Cũng như các nhà kinh tế học, giới khoa học chính trị thuộc trường phái Lựa chọn công cộng phản đối kịch liệt những cách tiếp cận với các giả định có tính lí tưởng và chuẩn mực đạo đức không thực tế về các chủ thể hoạch định và triển khai chính sách công. Họ đòi hỏi phải nhìn nhận những nhà hoạch định đó như những người bình thường, chứ không phải là các ông thánh, với cách thiên hướng về lợi ích cá nhân và các động cơ tối đa hóa lợi ích đó. Từ đó, họ nhấn mạnh một thực tế là con người dù ở vị trí nào đều có khuynh hướng vị kỷ và do vậy, nếu không nhìn thẳng vào sự thật này, các chính sách công “phục vụ các mục tiêu cộng đồng chung” sẽ dễ trở thành ảo tưởng và bị lợi dụng cho các mục đích cá nhân hay nhóm cục bộ. Nói cách khác, để vươn lên tầm khoa học, các nghiên cứu chính sách cần nhìn nhận tính vị kỷ, động cơ tối đa hóa lợi ích cá nhân như những dữ kiện thực tế, cho trước. Chỉ có như vậy, mới có thể đối phó chính xác với chúng cả bằng việc thiết kế bộ máy, qui trình chính sách, đánh giá tác động, khả năng thực thi…
Như vậy, quá trình xem xét các định nghĩa, các hướng tiếp cận nói trên về chính sách công cho thấy về nhận thức luận, dù có nhấn mạnh mặt này mặt khác nhưng đều khẳng định bản chất xã hội – nhà nước của chính sách công.
ở Việt Nam hiện nay, quan niệm về chính sách công nhìn chung chưa có sự nhất trí về các tính chất, tiêu chí giúp phân biệt chính sách với đường lối, chiến lược, cũng như khó có thể phân định được chính sách của Đảng với chính sách của Nhà nước. Tuy nhiên, thực tế điều hành đời sống xã hội ở Việt Nam cho thấy có sự tách biệt chức năng lãnh đạo (của Đảng) với chức năng quản lý (của Nhà nước), trong đó chính sách công ngày càng được coi là việc cụ thể hóa, thể chế hóa các chủ trương, đường lối, cương lĩnh, chiến lược- các định hướng chính sách của Đảng thành chính sách của Nhà nước.
Tuy nhiên, Hiến pháp Việt Nam qui định vị trí lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đất nước, với xã hội. Đảng là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam. Do đó, chính sách công có thể được hiểu với nghĩa rất rộng là hệ thống các quan điểm, các quy định thể hiện một thái độ nhất quán, lâu dài của Đảng, Nhà nước, mà thông qua đó Đảng, Nhà nước hướng dẫn, định hướng, quản lý các hoạt động xã hội nhằm đạt đến mục tiêu xác định. Ngoài ra, theo tinh thần đó, chính sách còn thể hiện dưới dạng phi văn bản, ví dụ những chỉ thị, mệnh lệnh bằng lời của các quan chức có thẩm quyền. Rất nhiều các chỉ thị, nghị quyết,… của Đảng, dù không có tính pháp lý (tức do cơ quan Nhà nước ban hành) vẫn có giá trị mệnh lệnh và do vậy nó cũng có vai trò như chính sách công. Mặc dù thực tế là vậy, song không thể đánh đồng Đảng với Nhà nước. Giữa chúng vẫn có sự khác nhau về đặc tính pháp lý, về phương thức thực thi quyền lực,… nên trong khái niệm chính sách hiểu theo nghĩa rộng như trên không bao chứa khái niệm chính sách công (của Nhà nước), cũng như của các tổ chức phi nhà nước khác. Tuy vậy, thực tiễn quá trình chính sách ở Việt Nam cho thấy: Với tư cách là một hình thức thực thi quyền lực chính trị, chính sách công không thể tách rời khỏi hệ thống chính trị – khuôn khổ chung để thi hành các quyết định chính trị. Do đặc điểm nói trên mà các nghiên cứu chính sách nhà nước ở Việt Nam phải tính đến các chính sách của Đảng. Vì thế thông thường nói đến chính sách công bao gồm các chính sách của Nhà nước, còn các chính sách của Đảng được hiểu là chủ trương đường lối của Đảng.
Khái niệm: Theo nghĩa chung nhất, chính sách là những hành động ứng xử của chủ thể tác động tới các hiện tượng tồn tại trong quá trình vận động phát triển nhằm đạt mục tiêu nhất định. Do đó, thực thi quá trình chính sách chính là thực thi quyền lực nhà nước của chủ thể. Bởi trên hết, chính sách công là chương trình hành động hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng. Nó chính là cái để khẳng định tính chính đáng của quyền lực nhà nước. ở tầm vĩ mô, có chính sách quốc gia và ở phạm vi hẹp hơn có chính sách địa phương. Trong đó, địa phương có quyền quyết định những chính sách thuộc thẩm quyền của mình để phát huy tiềm năng địa phương và giải quyết các vấn đề kinh tế – văn hóa – xã hội khác có tính đặc thù của mình.
Theo Từ điển chính quyền và chính trị Hoa Kỳ: “Chính sách (policy) là bản tuyên bố các mục đích chung có thể được chuyển thành kế hoạch hay chương trình có thể nêu rõ những mục tiêu cần đạt được” [5, tr.687].
Theo giáo trình Học viện HCQG: “Chính sách công là những hành động ứng xử của Nhà nước với các vấn đề phát sinh trong đời sống cộng đồng, được thể hiện bằng nhiều hình thức khác nhau, nhằm thúc đẩy xã hội phát triển” [13, tr.24]. Khái niệm này vừa bao hàm các đặc trưng: Chính sách công là do nhà nước ban hành để tác động đến các đối tượng thuộc cộng đồng một cách ổn định; vừa thể hiện bản chất của chính sách là công cụ định hướng của nhà nước cho mọi hành vi xã hội đối với các quá trình phát triển. Tuy nhiên, trong các nền kinh tế thị trường, xuất phát từ sự cần thiết phối hợp giữa nhà nước với thị trường mà Paul samuelson cho rằng: “chính sách còn là sự thỏa hiệp của chính phủ đối với nền kinh tế ngay cả khi không ban hành chính sách”. Hoặc xuất phát từ ý chí của nhà nước trong hoạt động quản lý xã hội mà James E. Anderson cho rằng: “Chính sách công là những hành động làm hay không nên làm do Nhà nước quyết định lựa chọn”[8, tr.122]. Quan niệm như vậy về chính sách từ những năm 60-
70 đã bộc lộ rõ: chính sách là sự lựa chọn hành động của nhà nước trong những điều kiện hoàn cảnh nhất định để đạt được mục tiêu. Do quá nhấn mạnh vai trò của các chủ thể có quyền lực (thực tế đôi khi diễn ra đúng như vậy) mà đã có quan niệm cực đoan cho rằng chính sách công là những quyết định ngẫu nhiên, đột xuất của Chính phủ (Hoa Kỳ). Nó không được giới nghiên cứu và xã hội chấp nhận.
Luận điểm được đặt trọng tâm khi nói về chính sách công là ở chỗ:
– Hướng tới phục vụ số đông trong xã hội dù là trực tiếp hay gián tiếp chứ không thể phục vụ một cá nhân.
– Là kết quả hành động nhà nước hướng tới chứ không phải là những dự kiến, lời nói không đi đôi với việc làm, không đi vào cuộc sống.
Theo TS. Ngô Huy Đức: “Chính sách quốc gia (chính sách công) là tất cả những quyết định và hành động của Chính phủ (ở mọi cấp) có ảnh hưởng đến công chúng”[16, tr.34]. Theo TS. Lê Minh Quân, TS. Nguyễn Hữu Đổng: “Chính sách với nghĩa chung nhất là tổng thể các quan điểm, các quy định, các biện pháp, các thủ thuật mà các chủ thể lãnh đạo quản lý (Đảng, Nhà nước, tổ chức) tác động lên đối tượng (khách thể) quản lý nhằm đạt đến một mục tiêu nào đó trong một khoảng thời gian nhất định. Trong đó, quan điểm là nguyên tắc thể hiện bản chất (chính trị, giai cấp) của một chính sách” [34, tr.134].
Đặc điểm của chính sách: Dù tiếp cận theo hướng nào thì chính sách công cũng mang những nét chung sau đây:
– Chính sách công là những tác động có tính cộng đồng. Rõ ràng dù là trực tiếp hay gián tiếp thì những kết quả mà nó mang lại luôn ghi dấu ấn lên đời sống cộng đồng. Hay nói khác hơn tính công cộng, vì cộng đồng luôn bao chứa bên trong những quyết định chính sách. Tức, ở đây cả người ban hành và đối tượng chịu tác động từ chính sách công đó đều nhân danh cộng đồng khi ban hành cũng như thực thi chính sách.
– Là những tác động có mục tiêu, có tính hướng đích (dù ngắn hạn hay dài hạn) nhằm giải quyết các vấn đề cụ thể của thực tiễn. Bao gồm các biện pháp liên quan với nhau, phụ thuộc lẫn nhau, được luận giải khoa học (khác với các quyết định nhất thời). Do đó, chính sách công chính là chương trình hành động của nhà nước (phân biệt rõ với đường lối – chính sách – biện pháp ở mức độ cụ thể hóa).
– Những hoạt động (được coi là chính sách công) mang tính hệ thống, ổn định và phù hợp với quan điểm chính trị của chủ thể hoạch định. Dù đơn lẻ hay một chương trình thì các chính sách công đều nằm trong một chuỗi các tác động có chủ đích của chủ thể theo một trật tự đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Dù không được đặt ra trực tiếp nhưng quan điểm chính trị của chủ thể chính sách công là nguyên tắc bất di bất dịch. Nhờ đó tính không (ít) thay đổi cũng như tính hệ thống của chính sách công được đảm bảo.
– Quá trình hoạch định chủ yếu diễn ra trong bộ máy nhà nước, là sản phẩm của quá trình thực thi quyền lực chính trị. Lẽ dĩ nhiên do vậy, chính sách công có tính hợp pháp giúp phân biệt nó với các chính sách của các tổ chức cá nhân trong khu vực tư nhân hay của các đảng, đoàn thể xã hội không nắm quyền lực công.
– Quá trình hoạch định bao hàm sự trao đổi thông tin và các nguồn lực, thảo luận, thương thuyết giữa và trong các thể chế nhà nước, sự tương tác với các tổ chức bên ngoài nhà nước. Lấy đối tượng tác động là số đông (cộng đồng) nên một đặc điểm không thể thiếu để có một chính sách công đúng đắn (phù hợp) là sự tham gia rộng rãi của mọi loại đối tượng trong xã hội. Với tinh thần đó, xem xét cái căn cốt nhất của chính sách công, năm 1993, Paul Sabatier và Hank Jenkins-Smith đi đến nhận định: Việc tạo ra những quan điểm và sự nhất trí chung giữa các đảng phái là nền tảng của quá trình chính sách.
Ngoài ra, một đặc điểm khá nổi bật ở bản chất chính sách công là tính liên ngành: kinh tế học, khoa học quản lý, khoa học thông tin, tâm lý xã hội,… Và xã hội càng văn minh thì tính liên ngành trong chính sách công càng mở rộng.
Tóm lại, đặc điểm chính sách công có thể còn rất nhiều song các vấn đề trên là cơ bản để nhận diện một chính sách công. Trong đó phải kể đến một số tính chất nổi bật của chính sách công để phân biệt nó với các thực thể khác.
Tính chất cơ bản của chính sách công: Tính cưỡng chế (của quyền lực công – tức nhà nước), tính thứ bậc (do tính thứ bậc của tổ chức nhà nước), tính mục tiêu (do tính mục tiêu của quyền lực), tính hệ thống (do sự liên quan giữa các biện pháp trong mối quan hệ với mục tiêu cuối cùng, cũng như tính khoa học cần có của các chính sách).
Ngoài những tính chất riêng có nói trên, để có một chính sách hiệu quả còn cần có sự đảm bảo một số tính chất: Tính giai cấp (chính sách đó phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền); tính dân tộc (phù hợp với đặc điểm văn hóa tâm lý thói quen dân tộc); tính nhân loại (phù hợp với xu hướng phát triển tiến bộ của nhân loại); tính khả thi kỹ thuật (đủ trình độ, kiến thức chuyên ngành để thực hiện); tính khả thi tài chính (có đủ nguồn vốn cho việc thực hiện chính sách); tính tối ưu kinh tế (lợi nhuận nhiều nhất); tính đồng bộ (phù hợp với các chính sách khác)…
Nhìn một cách tổng quát nhất, điều không thể phủ nhận là để một chính sách công thực sự hiệu quả nó phải chứa đựng cả tính khoa học và tinh thần chính trị lấy phụng sự cộng đồng làm mục tiêu; nó phải vừa nhạy cảm về mặt chính trị – đạo lí, vừa thể hiện tính thực dụng – hiệu quả.

2. Chu trình hoạch định chính sách công

2.1 Khái niệm hoạch đình chính sách công:

Quá trình hình thành chính sách công trên thực tế là quá trình các quần thể lợi ích đưa ra yêu cầu của mình và các chủ thể chính sách căn cứ vào yêu cầu lợi ích của xã hội để điều chỉnh các mối quan hệ lợi ích phức tạp. Quy trình hay chu trình hoạch định chính sách là một khái niệm để chỉ một hoạt động mang tính khép kín từ khâu đầu cho đến khâu cuối và đó cũng chính là điểm bắt đầu cho hoạt động chính sách ở mức độ cao sâu hơn. Như vậy nói quy trình hay chu trình hoạch định đều phải hiểu hoạt động hoạch định chính sách công diễn ra theo một lôgic, có trật tự và đặc biệt có tính kế thừa rất cao. “Mô hình khái niệm coi quá trình hoạch định và thực hiện chính sách công như việc lần lượt thực hịên các bước sau: Lập nghị trình hành động, lập chính sách hay ra quyết định, triển khai thực hiện, đánh giá chương trình hay phân tích tác động và cuối cùng là những phản hồi dẫn tới việc xem xét lại hay chấm dứt. Vì vậy nó là chu kỳ khép kín”.

Chu trình hoạch định chính sách công

Chu trình hoạch định chính sách công

2.2 Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách

* Cơ sở khoa học của việc hoạch định chính sách chính là các điều kiện tổng quát (tài chính – con người – thẩm quyền chính trị) để một chính sách có thể thực thi và đem lại hiệu quả, được hình dung ở các khía cạnh rất cơ bản sau:
– Cơ sở kinh tế: Khoa học kinh tế về sử dụng tài nguyên và các nguồn lực cung cấp luận cứ và luận chứng cho các vấn đề chính sách.
– Cơ sở chính trị: Chính sách thể hiện bản chất của quyền lực giai cấp, đại diện cho lợi ích của toàn dân tộc, thể hiện được trình độ phát triển của đất nước thông qua tính giai cấp – tính dân tộc – tính khoa học có trong chính sách.
– Hệ giá trị của giai cấp cầm quyền (tư tưởng, văn hóa, kinh tế,…): Chính sách đúng là chính sách đồng thời cũng là lựa chọn chính trị, do đó thể hiện tư tưởng, quan điểm của giai cấp thống trị trên mọi mặt.

2.3 Quá trình hoạch định và thực thi các chính sách công

* Quá trình hoạch định và thực thi các chính sách công có thể được coi là bao gồm 4 giai đoạn chính như sau: Một là, xác lập nghị trình Một vấn đề xã hội trở thành chính sách phải trải qua giai đoạn tìm kiếm sự đồng thuận, thống nhất tư tưởng, cách làm để đạt được mục tiêu. Đây là giai đoạn phát hiện vấn đề, những bức xúc nổi cộm trong đời sống cộng đồng cần được tháo gỡ.
Yêu cầu cao nhất của giai đoạn này là: khả năng nhìn ra vấn đề, năng lực nhận thức và biểu đạt nó cũng như cơ chế nêu vấn đề,… để một vấn đề xã hội trở thành chính sách. Từ dữ kiện thực tế, thông qua 3 nguồn cơ bản: Số liệu thống kê; các sự kiện; các nhận định của nhà chính trị lãnh đạo Đảng và Nhà nước, mà vấn đề chính sách nảy sinh. Tuy nhiên đời sống thực tiễn luôn vận động không ngừng và vô cùng phong phú trong lúc khả năng phát hiện vấn đề của con người lại bị giới hạn bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan. Dù vậy, sự tương tác giữa ba chương trình nghị sự (nguyện vọng nhân dân, sự ủng hộ của thông tin đại chúng và nghị trình chính thức của chính quyền được kiểm soát) buộc nhà hoạch định phải chú trọng. Trong đó nổi lên vai trò của người lãnh đạo vì chính họ kiểm soát chương trình nghị sự. Nếu tầm nhìn của người lãnh đạo hạn chế hay thiếu trách nhiệm xã hội thì có thể làm cho một vấn đề quan trọng thành ít hoặc không quan trọng. Đây chính là cách “giấu vấn đề” như các nhà nghiên cứu chính trị thường nói.
Bên cạnh đó, môi trường (văn hóa, tâm lý dân tộc, tôn giáo, lịch sử…), hoàn cảnh chính trị (bầu không khí tâm lý xã hội) thích hợp tác động cần thiết đến việc hình thành một chính sách. Mâu thuẫn biện chứng thường gặp phải ở giai đoạn xác lập nghị trình là: Mặc dù có khuynh hướng đề cao vai trò cộng đồng nhưng đôi khi ý kiến cá nhân lãnh đạo – thủ lĩnh chính trị tại một giai đoạn nhất định lại quyết định.
Hai là, xây dựng và ban hành chính sách gồm 2 công đoạn có những đặc điểm khác nhau về kỹ thuật chuyên môn và chính trị: Đó là xây dựng các phương án và lựa chọn để ban hành một trong các phương án đó.
Bản thân người xây dựng chính sách xét ở một góc độ khác cũng là đối tượng chính sách cho nên cũng bị ảnh hưởng phần nào bởi nhu cầu nguyện vọng của họ về việc chính sách có được chấp nhận hay không. Do đó có vấn đề “thỏa hiệp tiềm ẩn” ngay trong một tổ chức (tiểu ban xây dựng chính sách) hay ngay trong một cá nhân, trong giai đoạn này. Thực tế, do không thể tính hết được chi phí và lợi ích nên đôi lúc có tình trạng thỏa hiệp, tức đi tìm một chính sách đạt được sự nhất trí cao hơn là thuyết phục để có một chính sách được soạn thảo một cách khoa học.
Trong giai đoạn xây dựng chính sách, yêu cầu tính chuyên môn rất cao. Các chuyên gia, các nhà tư vấn, các viên chức có kiến thức và kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn tương ứng thường tham gia chính vào giai đoạn này. Bên cạnh đó, đóng vai trò chính còn bao gồm các ủy ban chuyên môn của Quốc hội, ban chuyên môn của Đảng, các cơ quan nghiên cứu (Trường đại học, Viện nghiên cứu), các Bộ liên quan, các tổ chức tư vấn phi chính phủ và đặc biệt là tiểu ban chuẩn bị chính sách, được thành lập trên cơ sở liên ngành và bao gồm các cá nhân có kiến thức có kinh nghiệm, các quan hệ chính trị,… Cho đến nay, xét trên lý thuyết, so sánh được chi phí với kết quả vẫn là vấn đề kỹ thuật trung tâm của công việc xây dựng các phương án chính sách.
Việc lựa chọn một phương án chính sách cuối cùng để thông qua và ban hành lại có tính chất chính trị. Vấn đề tập trung ở đây là phải giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích. Lúc đó, việc quyết định phương án nào sẽ được lựa chọn phụ thuộc vào hệ tư tưởng, quan điểm, các chuẩn mực giá trị của chủ thể hoạch định. Do đó, việc thông qua và phê chuẩn chính sách mang nhiều tính chính trị hơn. Và để đưa ra một chính sách, giai đoạn này phụ thuộc rất lớn vào phẩm chất chính trị cũng như trình độ chuyên môn nghiệp vụ chính sách của chủ thể.
Cán bộ hoạch định quyết định các loại phương án, trên cơ sở đó định ra các phương án chính sách được lựa chọn; cụ thể hóa vấn đề chính sách trong các hình thức văn bản luật, nghị định, quy định hành chính,… và các cơ quan có thẩm quyền phê chuẩn, thông qua trở thành chính thức. Về mặt tổ chức, thông thường sau khi đã xác định rõ mục tiêu, Chính phủ sẽ thành lập tiểu ban soạn thảo gồm các công chức, chuyên gia trong lĩnh vực liên quan, có chuyên môn, kinh nghiệm và đại diện lợi ích các ngành, bộ, nhóm dân cư,… có ảnh hưởng bởi chính sách. Sau khi tiếp thu và chỉnh lý, các phương án sẽ được trình cho các cấp có thẩm quyền để thông qua.
Có 4 yếu tố chính: tính khoa học, tính tiệm tiến, tính đại diện, tính thể chế (tính chất công cộng) ảnh hưởng đến mọi hoạch định chính sách.
Chung quy, có thể nói một chính sách cần có cả tính khoa học và tính đại diện cho lợi ích nhân dân. Điều này thể hiện một cách cô đọng tính dân chủ của một chế độ, một chính sách. Chính tính dân chủ dựa trên nền tảng khoa học giúp giải quyết được mâu thuẫn giữa tầm nhìn của lãnh đạo (thiểu số) và lợi ích trước mắt của dân chúng (đa số) trong các quy trình hoạch định chính sách. Do đó, trong quá trình làm chính sách, tham khảo ý kiến rộng rãi phải dựa trên cơ sở khoa học nếu không như thế dân chủ sẽ bị lợi dụng để thực hiện lợi ích cục bộ, thậm chí lợi ích cá nhân.
Thực tế cho thấy nội dung phương án chính sách dễ bị ảnh hưởng lợi ích cục bộ (của cá nhân, của cơ quan được giao hoạch định phương án chính sách) và dù không xuất phát nhưng dễ dàng thiết kế chính sách theo hướng có lợi cho cơ quan hoạch định về ngân sách triển khai, biên chế cũng như các thuận lợi khác… Đặc biệt các vấn đề chính sách mang tính cải cách thường động chạm đến lợi ích (ngân sách, biên chế) của một nhóm người trong xã hội nên quá trình hoạch định sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi suy tính lợi ích cục bộ của các cơ quan liên quan. Do đó làm hạn chế, cản trở việc đạt được mục tiêu, có khi không bảo đảm tính khoa học của chính sách.
Ba là, triển khai chính sách
Bao gồm việc ban hành các văn bản có tính pháp lý, quy định trách nhiệm, quyền hạn cũng như việc thực thi các hành động và biện pháp cụ thể như: Nguồn lực cho chính sách; diễn giải chính sách; các vấn đề về cưỡng chế và khuyến khích việc thực thi chính sách.
Thông thường, chủ thể triển khai là những tổ chức và cá nhân trong và ngoài chính phủ, quan trọng nhất là cơ quan hành chính cùng các viên chức của mình. Ngoài ra, các viên chức ở ngành lập pháp và tư pháp cũng có vai trò quan trọng đặc biệt trong các chính sách có liên quan đến các hoạt động tranh tụng như các chính sách về phá sản, chống độc quyền,…
Để triển khai chính sách công có hiệu quả, tối thiểu cần đảm bảo các điều kiện: có đủ nguồn tài chính vật lực – nhân lực cho việc triển khai, đủ thẩm quyền, trình độ chuyên môn kỹ thuật để cụ thể hóa các mục tiêu thành các chương trình hành động ở từng nội dung phù hợp với đối tượng chấp hành chính sách. Cơ quan được giao cũng chính là cơ quan chịu trách nhiệm giải trình với cấp trên về các hoạt động triển khai chính sách. Bên cạnh đó, do phát huy sự sáng tạo trong khi ứng phó với thực tế, các cơ quan triển khai chính sách thông thường cũng có những quyền độc lập nhất định trong việc cụ thể hóa nội dung chính sách. Cho nên cũng rất cần có các cơ quan theo dõi kiểm tra sự triển khai để có những điều chỉnh kịp thời.
Bốn là, tổng kết, đánh giá chính sách
Đây là khâu rất quan trọng nhưng thực tế thường ít được dành sự quan tâm thích đáng. Vấn đề chủ thể đánh giá (phân tích từ góc độ thông tin và quyền lực chính trị), trên thực tế đang đặt ra những mâu thuẫn. Điều đó cho thấy ngày nay muốn nâng cao chất lượng chính sách công phải yêu cầu rất cao về tính khoa học và trách nhiệm xã hội trong khâu đánh giá.
Trong rất nhiều tiêu chí, đánh giá một cách khoa học đòi hỏi khả năng đo lường được chính xác chi phí – kết quả, đòi hỏi khả năng quy được trách nhiệm là rất quan trọng. Nó cũng là hai vấn đề trung tâm của cải cách hành chính hiện nay trên thế giới. Công việc này được tiến hành ngay trước khi triển khai, trong cả quá trình xây dựng chính sách và có ảnh hưởng sống còn đối với chính sách.
ở đây không đơn thuần chỉ là vấn đề kỹ thuật khách quan để hiểu thấu đáo các tác động của chính sách đó, mà còn mang tính chính trị ngay từ khởi đầu và trong suốt mọi khâu từ thông qua kế hoạch, xác định hệ tiêu chí, kết luận đánh giá một chính sách giữa các chủ thể chính trị có liên quan. Theo tính chất và mức độ khái quát, có thể phân thành 3 loại đánh giá chính: đánh giá chính trị, đánh giá kỹ thuật và đánh giá toàn diện.
Đánh giá chính trị xem xét tính khả thi chính trị của chính sách, đặc biệt trong giai đoạn đầu của quá trình, khi chính sách chưa được thông qua, mới đang trong giai đoạn hình thành những ý tưởng căn bản. Do đặc điểm lịch sử -kinh tế – chính trị – xã hội Việt Nam, mà có khi đánh giá chính trị được đề rất cao. Tuy nhiên, tính khả thi chính trị nếu xét một cách khách quan tiến bộ tự nó đã bao hàm nhiều yếu tố tích cực thúc đẩy hiệu quả chính sách.
Đánh giá kỹ thuật tập trung vào cung cách triển khai một chính sách, các tác động trực tiếp, các chi phí và lợi nhuận trực tiếp của chính sách. Xem xét các chính sách đã được triển khai đúng ý định chưa, có đạt hiệu quả đặt ra không, đặc biệt các nguồn lực được phân bổ cho chính sách có đủ để phát huy hiệu quả?,…
Ngoài ra, để đi đến kết luận về mức độ thực hiện mục tiêu tổng thể của chính sách cần phải đánh giá toàn diện. Khảo sát toàn bộ các mặt, có hệ thống, khách quan và nghiêm ngặt nhằm đưa ra sự đánh giá về sự thành công trong mục tiêu tổng thể của chính sách, cũng như tác động gián tiếp của chính sách lên mọi mặt của đời sống nhân dân.
Cách đánh giá toàn diện làm sáng tỏ các tác động gián tiếp khác (về xã hội, môi trường, cũng như các tác động chính trị khác không thể quy ra tiền) để đạt tới tính tối ưu của chính sách. Nhận thức đầy đủ những ưu điểm và hạn chế của phương pháp so sánh chi phí – lợi ích – cơ sở để một chính sách đảm bảo tính tối ưu. Nó được xem là kênh phản hồi chính sách chủ đạo. Khuynh hướng đánh giá này đang được chú trọng, nhiều nước lập ra các ủy ban độc lập để đánh giá các chính sách. Ngày càng nhiều các cơ quan chính phủ cũng thành lập các bộ phận chuyên đánh giá toàn diện.

3. Vai trò của thái độ tôn trọng tính khoa học trong hoạch định chính sách công

3.1. Tính khoa học trong chính sách công, hoạch định chính sách công

Khoa học là một phạm trù chỉ hệ thống tri thức tích lũy trong quá trình lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài cũng như hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực. Chính vì vậy mà mọi hoạt động của con người nếu tính đến và biết tuân thủ quy luật khách quan thì kết quả đem lại sẽ tốt hơn rất nhiều, hạn chế được những tác hại, rủi ro. Cho nên tiêu chí quan trọng hàng đầu của một chính sách công trước hết là bảo đảm tính khoa học.
Thực chất của tính khoa học là sự tuân thủ chặt chẽ, nghiêm túc quy luật khách quan không bị lệ thuộc hay ảnh hưởng bởi bất cứ điều gì, bởi bất cứ ai.
Từ đó có thể định nghĩa tính khoa học của chính sách công là những đặc điểm cho thấy chính sách công cũng như quá trình hoạch định được luận chứng trên cở sở những dữ liệu, cứ liệu, con số thống kê, từ các kết quả nghiên cứu khoa học và quan sát thực tiễn. Nó được biểu hiện ra trong thái độ coi trọng bản chất khách quan khi xem xét đánh giá sự vật hiện tượng, tuân thủ nghiêm quy trình hoạch định, đảm bảo tính tính hợp lý, tính dân chủ, tính tối ưu, tính khả thi trong mỗi phương án được lựa chọn nhằm xây dựng, triển khai, đánh giá, điều chỉnh để có một chính sách công chất lượng.
Tính khoa học trong chính sách công và hoạch định chính sách công do đó là yêu cầu, phẩm chất thiết yếu để một chính sách từ lúc hình thành cho đến khi đi vào cuộc sống phát huy hiệu quả. Nó có mặt ở trong tất cả các giai đoạn của quy trình. Tính khoa học (phạm trù khách quan) không phụ thuộc ý chí con người còn thái độ tôn trọng tính khoa học chính là phạm trù gắn liền trực tiếp với chủ quan. Sự tách bạch đó chỉ tương đối. Do đó khi nói tính khoa học tức để chỉ tính chất của chính sách (với tư cách sản phẩm) còn nói thái độ tôn trọng tính khoa học là nói về nhận thức, hành vi làm chính sách (với tư cách quá trình hoạch định) của nhà hoạch định. Các phân tích trong luận văn đều sử dụng cả hai phạm trù này.
Tính khoa học có thể được gợi ý từ các tiêu chí như sau:
– Sự tuân thủ quy luật khách quan khi xem xét đánh giá nhận định và lựa chọn phương án chính sách cũng như triển khai thực thi, tổng kết đánh giá chính sách công. – Mục tiêu chính sách phản ánh tính tất yếu, quy luật khách quan, phù hợp nguyện vọng nhân dân, bảo đảm tính giai cấp, tính toàn diện trong phản ánh, ứng xử với cuộc sống của chính sách.
– Có tính đến yếu tố quốc gia, dân tộc, đặc thù địa phương, tập thể, tổ chức, cá nhân trong quy trình chính sách.
– Khẳng định giá trị xã hội (dân chủ, công bằng, nhân văn, sáng tạo,…) thông qua việc phân bổ lợi ích, giải quyết quan hệ lợi ích cho các đối tượng trong xã hội khi có tác động của chính sách.
– Quy phạm hóa quy trình hoạch định chính sách công theo chuẩn quốc gia và quốc tế (có tính thời đại, phù hợp thông lệ quốc tế).

3.2. Thái độ tôn trọng tính khoa học trong hoạch định chính sách công

Thái độ tôn trọng tính khoa học biểu hiện qua nhận thức cũng như hành vi bảo đảm trên thực tế chính sách được thiết kế, ban hành và tổ chức thực thi có khoa học. Đây là đòi hỏi quan trọng để ngày càng nâng cao tính khoa học cho các chính sách. Có thể biểu hiện thái độ tôn trọng tính khoa học qua các dấu hiệu chính sau:
– Nhận thức được sự vận động của thực tại khách quan như nó vốn có; biết sáng tạo phù hợp môi trường chính sách. Những người tham gia hoạch định có nhận thức thống nhất đối với mục tiêu chính sách.
– Đảm bảo tính chính xác trong thiết kế nội dung – một yếu tố quan trọng nhằm đạt đến hiệu quả của chính sách; đảm bảo tính tối ưu, thực thi đúng, đủ các phương án chính sách.
– Nhận thức đầy đủ tính thể chế của chính sách và hành động đúng bản chất cộng đồng (phúc lợi chung) của chính sách công.
– Chú trọng việc nêu vấn đề, phản ánh ý kiến của người dân, tạo cơ hội và nhu cầu thông tin, tranh luận, thảo luận, phản biện từ phía người dân đối với các chính sách trong mọi giai đoạn của quy trình hoạch định.
– Sự tham gia, ràng buộc của các bên trong quy trình chính sách phải được đặt ra một cách có hệ thống, quy củ theo hướng minh bạch hóa, phân cấp, phân quyền, đảm bảo chính sách phát huy hiệu quả cao nhất.
Từ các dấu hiệu trên, trong quá trình khảo sát, để xác định thái độ tôn trọng tính khoa học có thể dựa trên các tiêu chí cơ bản như:
– Sự tuân thủ nghiêm ngặt các chu trình, giai đoạn trên cơ sở khoa học -thực tiễn của chủ thể hoạch định, thực thi chính sách. Tuy nhiên, trong thực tế, do đặc tính quyền lực riêng có của nó cũng như tính đa dạng phức tạp của các loại hình (kiểu) chính sách mà đôi khi rất khó phận định rõ ràng các giai đoạn. Về điều này, một nhận xét của chính khách người Anh (Lord Salisbury) đáng lưu tâm: “Không có những cái gọi là chính sách cố định, bởi chính sách giống như mọi thực thể hữu cơ luôn ở trong quá trình hình thành”[5, tr.767].
– Đảm bảo nguyên tắc chung là tối ưu hóa chính sách, định hướng cho nhóm xây dựng chính sách trước khi chi tiết hóa các phương án, trong các khâu xác định nhu cầu, xem xét tình huống có vấn đề, định ra nội dung, mục tiêu nhiệm vụ. Tính tối ưu cũng chính là yêu cầu cao nhất của mọi chính sách, nó đồng nghĩa với hiệu quả.
– Xác định rõ mục tiêu chính sách, chú ý tính đa mục tiêu của chính sách. Xây dựng các phương án giải quyết mục tiêu đó. Nhận thức được các ưu khuyết điểm cũng như chi phí và lợi ích của từng khả năng để đạt tới mục tiêu.
– Đặt chính sách trong các yếu tố điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, an ninh – quốc phòng, tôn giáo tín ngưỡng và các dự báo để xây dựng, thực thi và đánh giá. Có nghiên cứu thực địa, điều tra thực tế, tham khảo các nguồn thông tin, số liệu của các cơ sở nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước nhằm bảo đảm cao nhất tính khoa học của chính sách.
– Lựa chọn phương án thực thi đạt kết quả cao với chi phí thấp nhất. Để đánh giá tính tối ưu của một phương án chính sách, hiện lý thuyết chi phi – lợi ích vẫn là nền tảng quan trọng. Song không tuyệt đối hóa cách tính toán quá sòng phẳng này để tránh bỏ qua những giá trị khác không dễ đo lường hết. Có đầu tư nghiên cứu cơ sở khoa học, lý luận làm nền tảng lựa chọn phương án.
– Xây dựng chính sách phù hợp và thống nhất với thông lệ và cam kết quốc tế đáp ứng yêu cầu hội nhập. Chuyên môn hóa, khoa học hóa, độc lập, khách quan, có tính chuyên ngành, liên ngành và tiến tới đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế trong xây dựng chính sách công.
– Bổ sung, cập nhật và từng bước hiện đại hóa kỹ năng nghiên cứu, phân tích, xây dựng, ban hành chính sách, thái độ đề cao ý thức khoa học,… cho đội ngũ cán bộ tham gia xây dựng chính sách.
– Khai thác hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu để kết nối các Viện khoa học, Viện nghiên cứu chiến lược cấp Trung ương và địa phương.
– Xây dựng tiêu chuẩn đánh giá dựa trên cơ sở khách quan, những số liệu gốc, chân thực có được trong quá trình chấp hành chính sách.
Tính khoa học trong chính sách công và hoạch định chính sách công có ý nghĩa rất lớn. Đây là yêu cầu hiển nhiên cho mọi phương án chính sách. Nó ảnh hưởng đến tính khả thi và hiệu quả cuối cùng của chính sách. Thúc đẩy sự phát triển của đơn vị, ngành, địa phương, đất nước theo chiều hướng tích cực, góp phần cải tạo thực tiễn kinh tế
– chính trị – xã hội theo mục tiêu đã đề ra.
Đảm bảo sự phân bổ giá trị xã hội, phân bổ công bằng các lợi ích. Xét theo quan hệ lợi ích, chính sách luôn cải cách và phát triển nhằm điều chỉnh quan hệ lợi ích. Lợi ích là động lực chấp hành chính sách, cũng là nguyên nhân cản trở việc chấp hành chính sách. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, chủ thể lợi ích rất nhiều và mỗi chủ thể đều muốn có được lợi ích lớn nhất. Những mâu thuẫn đó có khi tác động không tốt đến việc chấp hành chính sách. Một chính sách được hoạch định một cách khoa học sẽ góp phần giải quyết tốt mâu thuẫn lợi ích.

4. Vai trò của nhận thức trách nhiệm xã hội trong hoạch định chính sách công

Nhận thức trách nhiệm xã hội có nội hàm khá rộng, là biểu hiện cao nhất của đạo đức, hành vi, thái độ của con người, đặc biệt là con người xã hội.
Theo từ điển Triết học, “Trách nhiệm là phạm trù của đạo đức học và luật học, phản ánh thái độ xã hội đặc biệt và thái độ đạo đức – pháp luật của cá nhân đối với xã hội, thái độ này biểu thị ở sự hoàn thành nghĩa vụ đạo đức của mình và các tiêu chuẩn pháp luật” . Xét ở góc độ triết học – xã hội, phạm trù trách nhiệm chỉ mức độ năng lực và khả năng của con người thể hiện ra với tư cách là chủ thể của những hành động của mình. Đó là khả năng thể hiện một cách tự giác (có chủ ý, tự nguyện) những nhiệm vụ, thực hiện một sự lựa chọn đúng đắn; đạt tới một kết quả nhất định. Trong tất cả mọi học thuyết về đạo đức và pháp quyền, người ta xem xét vấn đề trách nhiệm trong mối liên hệ với một vấn đề của triết học, đó là “tự do”.
Do đó, trách nhiệm xã hội ở mỗi người sẽ được tăng cường thông qua những việc khác như: Tham gia xây dựng xã hội tốt đẹp, áp dụng nguyên lý tự giác có kế hoạch vào đời sống xã hội, làm cho nhân dân quen với tự quản và sáng tạo lịch sử. Vì lẽ đó, có thể thông qua mức độ được giáo dục, đời sống và hoạt động, mức độ nhận thức sai sót và sửa chữa sai lầm của một người để đo trách nhiệm xã hội của họ. Điều này làm cho trách nhiệm xã hội gần với trách nhiệm đạo đức.
Cũng với hàm nghĩa trên mà trách nhiệm cá nhân không chỉ bao hàm những hành vi đã làm mà cả sự nhận thức của họ về lợi ích xã hội nói chung, nghĩa là xét đến cùng nhận thức được quy luật phát triển của lịch sử. Trong hoạch định chính sách công, trách nhiệm xã hội của cá nhân chính là những ràng buộc mang tính pháp lý cũng như đạo đức đối với các chủ thể khi một chính sách được ban hành. Nó gắn liền với vai trò, với tính tích cực chính trị -xã hội của chủ thể hoạch định. Vì tầm quan trọng và tính chính trị của nó rất lớn nên các chính khách phương Tây đã nêu khẩu hiệu: “Một chức vụ công là một sự ủy thác, một trách nhiệm xã hội” trong vận động tranh cử của mình.
Trách nhiệm xã hội là tiêu chí quan trọng để tạo ra hiệu quả chính sách công. Luận điểm cơ bản nhất ở tiêu chí này là biết đặt trọng tâm vào việc đáp ứng lợi ích nhân dân của chủ thể hoạch định trong các chủ trương giải pháp chính sách. Trách nhiệm xã hội trong hoạch định chính sách công ở các nước Đảng Cộng sản cầm quyền
– chủ thể hoạch định chính sách đồng thời là các nhà lãnh đạo của Đảng cần được hiểu như trách nhiệm chính trị. Nó chính “là cảm giác “mắc nợ” mà một nhà hoạt động chính trị có thể có đối với một người khác do những biệt đãi trong quá khứ. Đó (trách nhiệm chính trị) là nghĩa vụ đáp lại sự biệt đãi” (Jay M. Shafritz).
Trách nhiệm xã hội được đánh giá chủ yếu và thường là ở nhận thức về nó. Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện hiện thực vào trong tư duy. Nhận thức trách nhiệm xã hội chính là những tri thức, hiểu biết của chủ thể hoạch định chính sách công về những ràng buộc nghĩa vụ của họ đối với dân chúng khi một chính sách được thực thi. Nó biểu hiện ở tinh thần hoạt động vì cái chung, vì cộng đồng và trong bất cứ trường hợp nào cũng không được hy sinh lợi ích nhân dân.
Rõ ràng liên quan đến nhận thức sẽ có rất nhiều vấn đề, tùy góc độ xuất phát để đề cập. Nhận thức trách nhiệm xã hội của chủ thể hoạch định chính sách công có thể được xác định ở một số tiêu chí cụ thể để dễ hình dung như sau:
– Nhận thức trách nhiệm xã hội biểu hiện tập trung nhất ở khả năng, mức độ thực hiện lợi ích xã hội vì nhân dân cả trước mắt và lâu dài, cả thế hệ hiện tại và tương lai của chủ thể trong các quá trình chính sách.
– Biểu hiện ở thái độ tiếp thu, xem xét các ý kiến phản hồi từ đối tượng thụ hưởng chính sách để có điều chỉnh kịp thời nhằm bảo đảm mục tiêu đề ra.
– Biểu hiện ở hành vi tôn trọng tập quán lịch sử, văn hóa truyền thống địa phương,…nơi chính sách tác động.
– Đó là những điều bắt buộc chủ thể phải làm khi chính sách công tác động vào đời sống xã hội gây ra những trở ngại cho dân chúng.
– Sự gánh chịu hậu quả, cả những thiệt thòi nếu xảy ra tình huống không mong muốn cho xã hội khi chính sách công được thực thi.
– Sự đầu tư (về con người, nguồn lực) để tiếp tục nghiên cứu đánh giá chính sách công, đúc rút kinh nghiệm nhằm hoàn thiện quy trình chính sách.
Mặc dù vậy song cần lượng hóa các tiêu chí để nhận diện mức độ đạt được trên thực tế nhận thức trách nhiệm xã hội của chủ thể trong hoạch định chính sách công. Các biểu hiện không thể bỏ qua khi xem xét là:
– Chủ thể hoạch định luôn có ý thức, dự liệu được các trường hợp bất khả kháng khi ban hành chính sách công gây những tác động không tốt.
– Chuẩn bị những phương án dự phòng, những biện pháp hữu hiệu để thúc đẩy việc điều chỉnh chính sách.
– Khắc phục nghiêm những thiệt hại (nếu có) do tác động không mong muốn của chính sách công gây ra.
– Luôn gần dân, sát thực tế, nắm bắt nguyện vọng cũng như kịp thời phản ánh vấn đề chính sách công lên cấp có thẩm quyền để được giải quyết, hạn chế tối đa tác hại đến mọi lợi ích nhân dân.
– Thiết lập hệ thống thông tin phản hồi thông suốt, thu thập, kịp thời xử lý thông tin, cung cấp căn cứ để đánh giá chính sách.
– Công khai kết quả đánh giá chính sách, để mọi người biết được những vấn đề và mâu thuẫn trong quá trình thực thi chính sách, do đó mà ủng hộ việc điều chỉnh chính sách, đồng thời biết được nên điều chỉnh chính sách vào lúc nào, mức độ nào, với những bước đi như thế nào, tránh những sai lầm trong lúc điều chỉnh.
– Trong mọi trường hợp, chủ thể hoạch định chính sách công luôn tự chịu trách nhiệm, chia sẻ thiệt hại với nhân dân. Nhận thức được sự bất cập cũng như những hạn chế yếu kém trong mỗi công đoạn để có điều chỉnh kịp thời, đảm bảo tính dân chủ, công khai, minh bạch, tính mục tiêu.
– Đặc biệt là tố chất của chủ thể, là nhân tố tích cực nhất, chủ động có quyền lớn nhất trong việc điều khiển quá trình xây dựng và thực thi chính sách. Sự thành bại của chính sách phụ thuộc vào quyết định của họ. Nếu chủ thể thiếu trách nhiệm xã hội, thì họ không thể kịp thời sửa chữa hoặc phủ định những chính sách đã lỗi thời hoặc sai lầm.
– Nhận thức về lợi ích của chủ thể cũng biểu hiện trách nhiệm xã hội ở họ. Tránh xu hướng tuyệt đối hóa lợi ích cá nhân (tập thể, tổ chức, đơn vị), không muốn nhận quyết sách có sai lầm, khuyết điểm vì cho rằng như thế là thừa nhận thất bại của bản thân và đồng nghĩa với việc mất đi những lợi ích nào đó.
– Đảm bảo tuân thủ đúng quy trình hoạch định, có tính đến các điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội, phù hợp với chuẩn mực, hệ giá trị chân chính của dân tộc và nhân loại.
– Thực hiện quy chế dân chủ trong trưng cầu ý kiến, trong 4 khâu của quy trình hoạch định.
Với những biểu hiện rất tập trung như trên để đo mức độ thực hiện trách nhiệm xã hội của chủ thể, nhận thức trách nhịêm xã hội trong hoạch định chính sách có ý nghĩa vô cùng to lớn, quyết định sự thắng lợi của chính sách. Nhận thức trách nhiệm xã hội trong hoạch định chính sách công là tiêu chí quan trọng đầu tiên để thúc đẩy một vấn đề xã hội trở thành chính sách và có thể được hoạch định, giúp chủ thể hoạch định có thể lựa chọn đúng phương án (khả thi chứ không chỉ vì sự nhất trí cao trong các đối tượng tham gia hoạch định) nhằm hiện thực hóa mục tiêu chính sách đặt ra. Từ đó có biện pháp điều chỉnh kịp thời những sai phạm trong thực thi chính sách bất kể lỗi do ai.
Ngoài ra, nó còn thúc đẩy những hoạt động có ý nghĩa nâng cao chất lượng chính sách công trước, trong và sau khi chính sách được ban hành, quan trọng nhất là thúc đẩy tính tích cực của chủ thể nhằm cải thiện các phương án chính sách, hoàn thiện các giai đoạn của quy trình chính sách. Có trách nhiệm với cộng đồng, chủ thể sẽ xác định đúng, trúng mục tiêu theo thứ tự ưu tiên trong chính sách công trên tinh thần vì lợi ích chung; hạn chế tối đa những tác động không tốt đến lợi ích cộng đồng do chính sách gây ra; giúp khắc phục mọi hoàn cảnh để nâng cao khả năng đạt tới tính tối ưu – hiệu quả về mọi mặt của chính sách; giúp hoàn thiện khả năng dự báo và phòng ngừa, tránh những xâm phạm lợi ích cộng đồng.
Tóm lại:
Thái độ tôn trọng tính khoa học là một cơ sở để có nhận thức trách nhiệm xã hội. Ngược lại đạt đến nhận thức trách nhiệm xã hội thì tự nó sẽ đặt ra yêu cầu tôn trọng tính khoa học trong hoạch định chính sách công. Chính tính khoa học (chứ không phải cái khác) là giá đỡ cho việc nêu cao trách nhiệm với dân với nước trong hoạch định chính sách. Chính tính khoa học giúp chủ thể phân bổ hợp lý lợi ích, phân bổ các giá trị xã hội trong hoạch định chính sách theo đúng mục tiêu đề ra.
Chính sách bảo đảm tính khoa học và trách nhiệm xã hội là một chính sách hợp lòng dân, bảo đảm an sinh xã hội và khơi gợi được những giá trị tốt đẹp của con người (tính tích cực, óc sáng tạo, lòng dũng cảm, đặc biệt là ý thức trách nhiệm vì sự phát triển của đất nước) mà chính sách tác động. Muốn có chính sách tốt trước hết bản thân các nhà hoạch định chính sách phải có thái độ tôn trọng khoa học và nêu cao trách nhiệm xã hội, biểu hiện và cụ thể hóa, thể chế hóa nó ngay trong quy trình thiết kế, ban hành chính sách. Tất nhiên cùng với điều đó và để có một chính sách tốt còn cần một loạt các biện pháp khác không có điều kiện đề cập ở đây.

Rate this post

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *